Sự lựa chọn trong cuộc sống: Đâu là con đường đúng?

choices in life
Trang chủ » Tự phản ánh » Lựa chọn trong cuộc sống » Sự lựa chọn trong cuộc sống: Đâu là con đường đúng?

“Chính sự lựa chọn, không phải tài năng cá nhân, mới quyết định chúng ta là ai.”

Từ lâu, tôi đã quyết định chọn câu nói trên đây của Giáo sư Dumbledore – trích tiểu thuyết Harry Potter làm châm ngôn sống của bản thân. Và giờ, nhân dịp viết bài về chủ đề “sự lựa chọn trong cuộc sống”, tôi quyết định chọn nó làm khởi điểm cho những dòng suy ngẫm dưới đây.

Với các bạn đọc chưa được biết về Harry Potter, tôi xin phép chia sẻ một số thông tin thoáng qua như sau (bạn có thể tìm trên Google để biết thêm chi tiết; trong giới hạn bài viết này, tôi không thể nói bên lề quá lan man được):

Ngày đầu tiên đặt chân đến Học viện Pháp thuật & Ma thuật Hogwarts, Harry Potter đã cùng các học sinh mới trải qua nghi thức phân loại – một chiếc nón phù thủy sẽ quyết định mỗi người phù hợp với nhà nào nhất trong bốn nhà ở Hogwarts (Gryffindor, Hufflepufff, Ravenclaw và Slytherin). Đối với Harry, chiếc nón nhận thấy cậu rất có tiềm năng để được xếp vào Slytherin – thể hiện qua các phẩm chất như thông minh lanh lợi, khát khao tự khẳng định, cũng như thái độ bất tuân luật lệ.

Tuy nhiên, Harry, dựa theo trực giác cũng như nhận định của những người cậu từng gặp trước đó, cảm thấy không thích lựa chọn này và nói với chiếc nón rằng: “Đừng vô Slytherin“.

“Mi có chắc không? Được rồi, nếu mi đã quyết thì tốt hơn là về… GRYFFINDOR!” (nhà Gryffindor vốn nổi tiếng về các đặc tính như gan dạ, tinh thần quả cảm và quyết đoán)

Như đã xảy ra, chiếc nón nhận thấy tiềm năng của Harry phù hợp với Slytherin; thế nhưng chính sự lựa chọn – mong muốn khác biệt – của Harry đã quyết định “điểm đến” của cậu.

Sau này, trong trận chiến với Tử xà Slytherin, Harry đã lập nên kỳ tích khi rút được thanh gươm Gryffindor khỏi Chiếc nón Phân loại – điều mà, như GS. Dumbledore tuyên bố, chỉ một Gryffindor chân chính mới có thể làm được.

Nói cách khác, không phải tài năng bẩm sinh, nhưng chính quyết định của Harry đã kiến tạo nên bản sắc của cậu.

Câu chuyện trên đây, tuy là hư cấu, cho thấy một minh chứng rất sống động về ý nghĩa của sự lựa chọn trong cuộc sống. Khi suy ngẫm về nó, tôi không thể không nhớ lại câu nói của Anne Frank:

Cuộc sống được định hình bởi những quyết định trong đời. Đầu tiên chúng ta đưa ra lựa chọn. Sau đó những lựa chọn này tạo nên chúng ta.

Cuộc sống, về bản chất, là tổng hòa của vô số lựa chọn. Từ các hoạt động nhỏ nhặt hàng ngày đến những quyết định lớn trong đời, chúng ta đang – dù ý thức hay không – liên tục đóng vai “đạo diễn” quyết định mọi diễn biến trong câu chuyện cuộc đời của mình.

Tóm tắt nội dung chính

  • Mỗi quyết định trong đời, dù có vẻ tầm thường đến đâu, đều góp phần hình thành nên nhân cách, vận mệnh của chúng ta cũng như cộng đồng xung quanh.
  • Về cơ bản, mọi lựa chọn trong đời đều quy về hai con đường: Mở rộng (Growth) hay Thu hẹp (Diminishment).
  • Thoạt nhìn có vẻ đơn giản, song thực tế không hề dễ để đưa ra lựa chọn trong cuộc sống – do ảnh hưởng của các yếu tố như số phận/ hoàn cảnh, ý chí tự do, tính xác thực, ngụy tín, sự bất định, v.v…
  • Tất cả chúng ta đều có quyền tin rằng mình có quyền lựa chọn trong cuộc sống – quyết định con đường cuộc đời mình sẽ đi về đâu.
  • Điều quan trọng là cân bằng giữa ý chí tự do bên trong với ảnh hưởng bên ngoài – tập trung vào những gì bản thân có thể kiểm soát và ý thức rằng, ngay cả khi bị hạn chế bởi hoàn cảnh, con người vẫn không đánh mất khả năng thay đổi thực tế thông qua quyết định của chính mình.
  • Thói lề mề, định kiến trong vô thức, khả năng kiểm soát cảm xúc yếu, xu hướng tự chối bỏ, thích “ôm đồm”, v.v… là những nguyên nhân chính ngăn cản con người đưa ra quyết định đúng đắn.
  • Mọi lựa chọn ta đưa ra không chỉ ảnh hưởng đến bản thân – mà còn có thể tác động đến những người xung quanh và xã hội nói chung. Do đó, điều quan trọng là luôn tỉnh táo trong mọi quyết định, cũng như sẵn sàng thừa nhận tính biến động không ngừng của đời sống.
  • Để đưa ra lựa chọn đúng đắn, mỗi cá nhân nên dành thời gian tự phản ánh, cân nhắc hậu quả của mọi hành động, tìm kiếm sự hỗ trợ từ người khác, không ngừng học hỏi, lập kế hoạch, đánh giá tiến độ bản thân, v.v…
  • Cảm giác hối tiếc là điều không thể tránh khỏi khi đưa ra lựa chọn; mỗi người cần học cách chấp nhận những gì đã qua, học cách sống cho hiện tại, nhận thức tiềm năng thay đổi trong tương lai, và lựa chọn thái độ sống cho chính mình.
  • Khi phải đưa ra lựa chọn – đặc biệt là những quyết định khó khăn có thể tác động đến người khác, hãy luôn cố gắng “nâng người lên – hạ mình xuống”, ưu tiên đạo đức và cộng đồng hơn lợi ích cá nhân, cũng như giữ vững niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.

Ví dụ về những sự lựa chọn trong cuộc sống

Đã bao giờ bạn thức dậy buổi sáng và tự hỏi: Hôm nay mình sẽ uống cà phê hay trà đây?

Chỉ là một sở thích cá nhân nhỏ thôi, vậy mà nó cũng đủ để quyết định cả ngày sống của chúng ta.

Từ khi mở mắt đến lúc đi ngủ, chúng ta luôn không ngừng đối mặt với sự lựa chọn – mỗi quyết định sẽ đưa chúng ta đi theo một con đường khác biệt.

Cùng với thời gian, trải qua các giai đoạn của đời sống, những vấn đề ta phải quyết định cũng đồng thời trở nên hệ trọng hơn. Từ chuyên ngành đại học, con đường sự nghiệp, các mối quan hệ, bạn bè thân hữu, v.v… cho đến cả những vấn đề thuộc về nhân sinh.

  • Tôi sẽ hành động dựa theo chuẩn mực đạo đức nào?
  • Tôi có đề cao các giá trị cốt lõi như sự trung thực, lòng trắc ẩn hay công bằng không?
  • Những niềm tin nào sẽ đóng vai trò nền tảng hình thành nên thế giới quan của tôi?
  • Tôi sẽ thực hành lối sống tối giản hay xa hoa, hướng nội hay hướng ngoại?
  • Tôi có ưu tiên sự tử tế và thấu cảm – thay vì tự cho mình là đúng và phán xét người khác không?
  • Niềm tin nào (nếu có) sẽ mang lại cho tôi sự an ủi và cảm thức ý nghĩa?
  • v.v…

sự lựa chọn trong cuộc sống

Sự lựa chọn trong cuộc sống là gì?

Trong mọi lĩnh vực cuộc sống, chúng ta đã và đang không ngừng quyết định sẽ chấp nhận điều gì, loại bỏ điều gì, chọn chỗ đứng của mình ở đâu.

Rất nhiều lần, chúng ta lựa chọn mà không hề ý thức về việc làm của mình.

Đã từng bao giờ bạn thức dậy buổi sáng và thấy trời đang mưa chưa? Bất giác, một cảm giác u ám bắt đầu mon men xâm chiếm tâm trí bạn. Có những ngày, bạn – cố ý hoặc vô tình – để thời tiết chi phối cảm xúc bên trong. Và cũng có những ngày, bạn ngắm nhìn cơn mưa với một tâm hồn ấm áp, tràn đầy lòng biết ơn.

Phản ứng có vẻ mang tính bản năng này, về bản chất, cũng là một lựa chọn – một thứ mà ta có thể học cách kiểm soát.

Ý nghĩa của sự lựa chọn trong cuộc sống

Cuộc sống là kết quả tổng hòa từ tất cả lựa chọn của bạn.

Albert Camus

Hãy thử hình dung bạn đang đi trên đường. Tới ngã tư nọ, bạn chọn một con đường có vẻ sẽ dẫn tới đích đến, để rồi phát hiện ra nó chỉ là ngõ cụt. Hoặc, tệ hơn, bạn bị kẹt xe và không cách nào thoát ra được. Không thể tiến tới, cũng không thể đi lui – chỉ có thể “nhích” từng bước và hy vọng một lúc nào đó, làn xe sẽ được “giải phóng” bớt.

Một ví dụ đơn giản, song rất “thấm thía” về tầm quan trọng của sự lựa chọn trong cuộc sống. Tùy vào “con đường” bạn chọn, điều đó sẽ quyết định bạn sẽ đi về đâu, di chuyển dễ dàng như thế nào, liệu rằng bạn có tới được nơi mình mong muốn hay không.

sức mạnh của sự lựa chọn

Sức mạnh của sự lựa chọn trong cuộc sống

Trong nhiều năm, các chuyên gia thuộc mọi lĩnh vực, từ tâm lý học đến phát triển lãnh đạo, đều đồng ý về một điểm quan trọng: khả năng đưa ra quyết định là một kỹ năng sống cơ bản – là động lực thúc đẩy sự phát triển cá nhân và định hình hướng đi trong đời.

Mỗi lựa chọn đều góp phần cấu thành nên nhân cách của ta. Liệu rằng chúng ta có chọn lòng dũng cảm thay vì sự thoải mái, sự chính trực thay vì sự tiện lợi, lòng trắc ẩn thay vì sự thờ ơ không? Những lựa chọn lặp đi lặp lại này, dù lớn hay nhỏ, đều tác động đến “la bàn” đạo đức và quyết định con người mà ta sẽ trở thành.

Đến lượt nó, nhân cách sẽ định hình số phận. Với từng lựa chọn hàng ngày, chúng ta quyết định những cơ hội sẽ được thu hút đến với ta, những mối quan hệ ta vun đắp, và di sản cá nhân của mình.

Không chỉ dừng lại ở đó, tất cả lựa chọn của chúng ta đều tạo ra hiệu ứng lan tỏa, ảnh hưởng không chỉ đến bản thân mà còn cả những người xung quanh – và thậm chí, khi được tích lũy và “cộng hưởng” đủ, đến toàn xã hội.

Chúng ta thử suy ngẫm về ví dụ này nhé. Lựa chọn trường đại học không chỉ dừng lại ở việc tiếp thu kiến ​​thức hay đảm bảo con đường sự nghiệp. Nó sẽ quyết định bạn được đưa vào môi trường như thế nào – sẽ kết nối với những người bạn, người thầy và mạng lưới quan hệ ra sao. Những mối quan hệ này, đến lượt nó, đóng vai trò không nhỏ định hình nên tính cách, quan điểm sống và các cơ hội trong tương lai – theo những cách mà bạn thậm chí không thể lường trước được.

Giả sử bạn chọn một ngôi trường “điểm” chỉ vì danh tiếng của nó. Đúng là nó sẽ giúp khơi dậy trong bạn tinh thần cạnh tranh và cầu tiến, nhưng điều đó không phải không có cái giá của nó. Rất có thể, nó sẽ khiến bạn quan tâm đến thành công bề ngoài hơn là hạnh phúc bên trong – hệ quả là một cuộc sống mất cân bằng, phải hy sinh những mối quan hệ để chạy theo những thành tích phù du, thỏa mãn cái tôi cá nhân. (thú thực với bạn, đây chính là điều đã từng xảy ra với tôi trước đây)

Như bạn thấy đấy, mọi lựa chọn đều dẫn tới tác động lan tỏa, ảnh hưởng đến cuộc sống của rất nhiều người liên quan.

cuộc đời là những sự lựa chọn

Cuộc đời là những sự lựa chọn

Chính khi thấu hiểu sức mạnh của sự lựa chọn, chúng ta được mời gọi chuyển từ thái độ “thụ động”, cam chịu số phận sang chủ động sống hết mình.

Chính khi có được tinh thần trách nhiệm đó, chúng ta giảm bớt nguy cơ đưa ra những quyết định sai lầm, suy nghĩ và hành động chân thực hơn. Đây chính là nền tảng cần thiết cho một cuộc sống viên mãn lâu dài.

Cuộc sống là một sự lựa chọn. Mỗi lựa chọn bạn đưa ra đều tạo nên con người của bạn.

John C. Maxwell

Vai trò của sự lựa chọn

Cuộc đời có hai lựa chọn chính

Tồn tại hay không tồn tại?

William Shakespeare

Như đã đề cập phía trên, chúng ta phải đưa ra quyết định trong vô số khía cạnh cuộc sống – sự nghiệp, bạn đời, gia đình, v.v… Tuy nhiên, tôi cho rằng tựu chung, tất cả đều quy về sự lựa chọn giữa hai con đường chính: Mở rộng (Growth) hay Thu hẹp (Diminishment). Hoặc – như cách nói của Shakespeare, “tồn tại” hay “không tồn tại”.

Chúng ta có lựa chọn những hành động, suy nghĩ và quan điểm giúp mở rộng tiềm năng, làm phong phú thêm trải nghiệm sống và đóng góp vào điều gì đó lớn lao hơn chính bản thân ta không?

Hay chúng ta, vì thái độ thờ ơ, sợ hãi hay thiển cận, sẽ vô tình đi theo con đường khiến ta trở nên khép mình, trì trệ – để rồi cuối cùng đưa bản thân và cộng đồng đi đến chỗ suy tàn?

  1. Mở rộng (Growth)

Cốt lõi của con đường Mở rộng là một thái độ sống có chủ đích. Đó là khi bạn luôn nỗ lực hướng đến một tổng thể lớn hơn, học hỏi, nắm bắt mọi cơ hội phát huy tiềm năng – của chính mình cũng như mọi người xung quanh.

Đặc điểm chính:

  • Sẵn sàng chấp nhận thử thách – dù là ở phương diện trí tuệ (vd: đọc một cuốn sách khó), cảm xúc (vd: đối thoại cởi mở với một người khó tính) hay thực tế (vd: khởi xướng một dự án mới) – nhằm mục tiêu học hỏi, thích nghi và phát triển chính mình.
  • Ưu tiên sự viên mãn lâu dài hơn thỏa mãn ngắn hạn – bằng cách đầu tư thời gian phát triển kỹ năng thay vì vui chơi giải trí, nuôi dưỡng các mối quan hệ thay vì thú vui thoáng qua, hoặc theo đuổi một công việc có ý nghĩa thay vì chỉ quan tâm đến kiếm tiền nhanh, v.v…
  • Thực hành suy ngẫm, phản tỉnh và ý thức trong mọi hành động – dựa trên cơ sở hệ giá trị và mục tiêu cá nhân, không phản ứng bốc đồng theo hoàn cảnh.
  • Xem xét tác động của việc mình làm đến người khác (gia đình, cộng đồng, xã hội, v.v…), chuyển hướng tập trung từ cái “tôi” hữu hạn sang cái “ta” vô hạn.
  • Cởi mở, sẵn sàng đối xử tử tế và yêu thương vô điều kiện – cả với bản thân cũng như người khác – mà không quá quan tâm đến việc chứng mình là mình “đúng” trong mọi hoàn cảnh.
  1. Thu hẹp (Diminishment)

Ngược lại, con đường Thu hẹp thể hiện một thái độ sống hoàn toàn khác. Thực tế, tất cả chúng ta đều ít nhiều đã từng đi theo nó, khi ta:

  • Bám lấy những thói quen cũ, năm này qua năm khác – ngay cả khi làm như vậy chẳng dẫn đến điều gì mới mẻ. Đó là khi ta thích sự thoải mái và chọn “nướng” thời gian vào mạng xã hội (thay vì đọc sách), hoặc tham gia nói chuyện phiếm (thay vì bàn luận về những chủ đề có ý nghĩa).
  • Theo đuổi sự thỏa mãn thoáng qua – tìm cách “câu” like trên mạng xã hội, mua sắm bốc đồng, hoặc ăn uống nhậu nhẹt để “quên đi” những gánh nặng trong đời.
  • Để bản thân bị chi phối bởi cảm xúc, áp lực bên ngoài và nhu cầu tức thời, mà không dừng lại để suy ngẫm hoặc điều chỉnh hành động cho phù hợp với hệ giá trị cốt lõi (vd: giận dữ và quát mắng người thân khi gặp điều không hài lòng).
  • Sống chỉ biết đến mình, cổ súy chia rẽ, nhìn thế giới chủ yếu qua lăng kính của nhu cầu/mong muốn cá nhân mà không quan tâm đến sự kết nối của vạn vật (vd: luôn ưu tiên mục tiêu cá nhân trong công việc, ngay cả khi nó khiến ta từ chối làm việc nhóm hoặc hy sinh lợi ích tập thể).
  • Tìm mọi cách chứng minh là mình “đúng” – đến mức sẵn sàng hy sinh các mối quan hệ; quá háo thắng tranh luận thay vì học hỏi từ những quan điểm khác.
Đặc điểmCon đường Mở rộng
Con đường Thu hẹp
Thái độ đối với khó khăn thử tháchSẵn sàng đón nhận để học hỏi & phát triểnTìm kiếm sự thoải mái trong lề thói quen thuộc, từ chối những điều mới
Mục tiêuTheo đuổi sự thỏa mãn & tăng trưởng lâu dàiTheo đuổi sự thỏa mãn thoáng qua, niềm vui tức thời
Quá trình ra quyết địnhChủ động, lấy giá trị & mục tiêu làm động lực
Bị động, là “nạn nhân” của cảm xúc & áp lực bên ngoài
Quan niệm về tha nhânHướng đến cái “ta”, nhận thức sự kết nối của vạn vật
Hướng đến cái “tôi”, tách biệt & xem nhẹ người khác
Phương thức giao tiếp & hệ giá trịTrân trọng các mối quan hệ & lòng tốt
Muốn chứng minh bản thân là “đúng”, tư duy háo thắng

2 lựa chọn trong cuộc sống

Mỗi chúng ta đều có hai lựa chọn về những gì sẽ làm với cuộc sống của mình. Lựa chọn đầu tiên là trở nên nhỏ bé hơn so với tiềm năng của mình. Kiếm được ít hơn. Có ít hơn. Đọc ít hơn, suy nghĩ ít hơn. Thử nghiệm ít hơn, kỷ luật bản thân ít hơn. Đây là những lựa chọn dẫn đến một cuộc sống vô nghĩa, luôn chìm trong lo lắng.

Còn lựa chọn thứ hai? Đó là làm tất cả! Là trở thành tất cả những gì ta có thể trở thành. Đọc mọi cuốn sách có thể. Kiếm được nhiều nhất có thể. Cho đi và chia sẻ nhiều nhất có thể. Phấn đấu, kiến tạo và hoàn thành nhiều nhất có thể.

Jim Rohn

sự lựa chọn trong cuộc sống

Sự lựa chọn giúp ta điều gì?

Vấn đề của sự lựa chọn

Không gì khó khăn hơn, và vì vậy càng quý giá hơn, cho bằng khả năng lựa chọn.

Napoleon Bonaparte

Thông thường, sự lựa chọn trong cuộc sống không phải là chuyện “trắng” hay “đen”. Nó đòi hỏi ta phải cân nhắc rất nhiều thứ, đối mặt với đầy rủi ro có thể xảy ra, cũng như nhiều vấn đề liên quan khác (mà chúng ta sẽ cùng phân tích dưới đây).

giữa muôn vàn sự lựa chọn

Giữa muôn vàn sự lựa chọn

Ảnh hưởng của số phận & ý chí tự do

  • Thuyết định mệnh (Determinism)

Một số người cho rằng, nhân loại luôn bị chi phối bởi các thế lực nằm ngoài tầm kiểm soát của cá nhân – còn được gọi là số phận hay định mệnh. Đây là quan niệm đã có nguồn gốc từ lâu đời, đặc biệt phổ biến trong một số truyền thống tôn giáo và tâm linh cổ điển.

Trải qua lịch sử, ý niệm về số phận dần phát triển và biến đổi, dẫn tới sự ra đời của lý thuyết tất định (determinism) hay thuyết định mệnh – được củng cố bởi các học thuyết như thuyết nguyên nhân của Sigmund Freud. Theo đó, mọi sự kiện, bao gồm cả quyết định của cá nhân, đều có căn nguyên từ các sự kiện diễn ra trước đó.

Nếu mọi hành động đều là hậu quả có thể dự đoán được từ những hành động trước đó, thì còn chỗ nào cho sự lựa chọn?

Liệu rằng cảm giác tự do được lựa chọn của chúng ta chỉ là ảo tưởng, một “câu chuyện” chúng ta dựng lên sau sự việc để hợp lý hóa các sự kiện đã diễn ra?

  • Chủ nghĩa tự do (Libertarianism)

Ngược lại với thuyết tất định là chủ nghĩa tự do (libertarianism), đề cao vai trò của ý chí tự do. Theo đó, chúng ta là “tác giả”, là “đạo diễn” cho mọi hành động của chính mình. Mọi cá nhân đều sở hữu quyền tự chủ thực sự – khả năng tự quyết định vượt lên các vòng lặp nhân quả đơn thuần.

Chủ nghĩa tự do nhấn mạnh đến trải nghiệm chủ quan của con người về tự do – bao gồm năng lực cân nhắc, đong đếm các giải pháp và chủ đích lựa chọn một hướng đi giữa vô vàn lựa chọn. Vì lý do này, trách nhiệm đạo đức cá nhân trở nên vô cùng quan trọng.

  • Thuyết tương hợp (Compatibilism)

Và tiếp theo, chúng ta có thuyết tương hợp (compatibilism), một quan điểm “trung dung” giữa hai thái cực nêu trên. Học thuyết này thừa nhận sự tồn tại của rất nhiều yếu tố tác động đến sự tồn tại của cá nhân – gen di truyền, cách nuôi dạy, môi trường sống, áp lực xã hội, những cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên, v.v… Nói cách khác, chúng ta không phải là những cá thể độc lập hoàn toàn. Thế nhưng, ngay cả khi bị ràng buộc bởi những yếu tố đó, chúng ta vẫn sở hữu quyền tự chủ (agency), khả năng cân nhắc và lựa chọn có ý thức trong một mức độ nhất định.

Ngay cả khi hành động của chúng ta không phải là không có nguyên nhân (vd: khuynh hướng, hoàn cảnh thực tế), thì đó vẫn là lựa chọn của ta, phản ánh các giá trị, mong muốn và ý định bên trong.

Mấu chốt của thuyết tương hợp không phải là liệu ý chí của cá nhân có hoàn toàn thoát khỏi mọi nguyên nhân hay không, mà là liệu cá nhân có thể trải nghiệm và thực hành sự tự do trong khuôn khổ tồn tại được xác định trước hay không.

suy ngẫm tỉnh thức

Điều gì quyết định sự lựa chọn của chúng ta

Về phần mình, tôi cho rằng mình thiên về chủ nghĩa tương hợp hơn – một “lập trường trung dung”, không hướng tới thái cực lý luận thuần nào, nhưng tập trung nhiều hơn vào tính thực tế.

Chúng ta thử xem xét ví dụ về việc lựa chọn con đường sự nghiệp nhé. Liệu rằng khuynh hướng của bạn đối với một lĩnh vực cụ thể có phải chỉ đơn giản là kết quả của gen di truyền và điều kiện môi trường (quan điểm tất định)? Hay bạn thực sự tự do lựa chọn bất kỳ con đường nào, không bị chi phối bởi hoàn cảnh (quan điểm tự do)?

Hoặc có lẽ, như thuyết tương hợp gợi ý, hoàn cảnh và khuynh hướng của bạn CÓ THỂ tác động khuynh hướng của bạn, song bạn vẫn có khả năng phản biện lại những ảnh hưởng này và chủ đích lựa chọn con đường phù hợp với bản thể bên trong – ngay cả khi nó có nghĩa là đi ngược lại một số giả định/ tiền đề cụ thể.

Hãy thử nghĩ mà xem.

Trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta luôn trải nghiệm và hành động như thể ta sở hữu ý chí tự do. Chúng ta cân nhắc các lựa chọn, chúng ta cảm thấy gánh nặng trách nhiệm từ quyết định của mình, và chúng ta kỳ vọng người khác chịu trách nhiệm cho quyết định của họ.

Chúng ta chắc chắn có thể hành động theo ý muốn của mình – có thể chọn theo đuổi một nghề nghiệp cụ thể, kết thúc một mối quan hệ, hoặc chấp nhận một niềm tin mới. Thế nhưng, điều gì quyết định chính bản thân ý muốn của chúng ta ?

Điều gì hình thành nên mong muốn, giá trị và những khuynh hướng hành vi/ tư tưởng trong ta?

Liệu những ham muốn của chúng ta có được lựa chọn một cách tự do – hay chúng cũng là sản phẩm của những thế lực nằm ngoài tầm kiểm soát có ý thức của chúng ta?

Con người có thể làm những gì mình muốn, nhưng không thể MUỐN những gì mình muốn.

Arthur Schopenhauer

Suy cho cùng, bất kể lập trường triết học của bạn là gì, thì thực tế vẫn là: chúng ta phải đưa ra lựa chọn, và phải sống NHƯ THỂ quyết định của chúng ta là quan trọng.

Chính trong khuôn khổ tự do được nhận thức này – dù có bị hạn chế đi chăng nữa, mà chúng ta kiến tạo cuộc sống và quyết định con người ta sẽ trở thành.

Tính xác thực (Authenticity)

Khái niệm tính xác thực (authenticity), thường gắn liền với chủ nghĩa hiện sinh, nhìn chung đề cập đến việc “sống đúng với bản chất thật của mình”.

Đối với nhiều người, hành trình hướng đến tính xác thực bắt đầu bằng việc tự biết mình (self-knowledge) – khi cá nhân khám phá và thấu hiểu các giá trị, mong muốn sâu sắc nhất, năng lực vốn có và sở thích thực sự của mình. Nói cách khác, cá nhân nhận thức được điều gì thực sự quan trọng với họ, điều gì khơi dậy niềm đam mê trong họ, và điều gì thống nhất với “kim chỉ nam” bên trong, không bị phụ thuộc vào sự công nhận từ bên ngoài.

Khi đưa ra những lựa chọn trên cơ sở của tự biết mình, thì về mặt lý thuyết, chúng ta đang tiến gần hơn đến tính xác thực.

Tuy nhiên, thực tế là chúng ta đang sống trong một thế giới tràn ngập các yếu tố “nhiễu loạn” bên ngoài. Nào là hàng loạt các thông điệp quảng cáo “định hình” mong muốn của chúng ta, cho đến những thông tin được “tuyển chọn” trên phương tiện truyền thông xã hội tác động đến nhận thức của ta về thành công và hạnh phúc. Đó là chưa kể đến các chuẩn mực văn hóa và kỳ vọng xã hội, về việc thế nào là một cuộc sống “mong muốn” hay “xứng đáng”, càng khiến ta dễ dàng theo đuổi những lựa chọn không hề chân thực.

Phần lớn trường hợp, những yếu tố bên ngoài này đều ít nhiều “lấn át” tiếng nói của tâm trí bên trong, khiến việc thấu hiểu “bản thể thực sự” trở nên vô cùng khó khăn.

suy ngẫm tỉnh thức

Mặt khác, bản thân ý niệm về một “bản ngã thực sự” cũng gây không ít tranh cãi. Một số quan điểm triết học bác bỏ sự tồn tại của một bản sắc “cốt lõi” bất biến cần được khám phá. Theo các trường phái này, cái được gọi là “bản ngã” thực tế luôn không ngừng biến đổi, chịu ảnh hưởng bởi các trải nghiệm và quyết định của cá nhân.

Nói cách khác, tính xác thực không phải là cái gì đó cần phải đạt tới. Cốt lõi của đời sống không nằm ở việc tìm kiếm một “bản ngã thực sự” ẩn giấu đâu đó, mà là chủ động kiến tạo bản ngã thông qua lựa chọn có ý thức và chủ đích của mình.

Chúng ta là kết quả của những gì ta suy nghĩ. Chính từ suy nghĩ mà ta kiến tạo nên thế giới này.

Thích Ca

Tuy rằng theo đuổi tính xác thực là một nỗ lực đáng trân trọng, chúng ta cũng cần lưu ý về những rủi ro của nó – cụ thể là nguy cơ rơi vào chủ nghĩa cá nhân thuần túy.

Nếu quá tập trung “sống thật với chính mình” mà không cân nhắc đến tác động của lựa chọn đến người khác, chúng ta rất dễ dàng trở nên ích kỷ và thiếu nhạy cảm – gây tổn hại đến mối quan hệ với tha nhân.

Nếu quá cứng nhắc bám chấp vào một hình mẫu con người “lý tưởng”, chúng ta sẽ tự giới hạn mình trước những góc nhìn và cơ hội phát triển mới.

Ngụy tín (Bad faith)

Được đề xuất bởi triết gia hiện sinh Jean-Paul Sartre, khái niệm ngụy tín (bad faith) được xem là đối lập của tính xác thực. Nó đề cập đến một hình thức tự lừa dối, một cách người ta sử dụng để trốn tránh nỗi khổ của tự do cá nhân và gánh nặng trách nhiệm đi kèm với nó.

Về cơ bản, ngụy tín được biểu hiện qua thái độ trốn tránh trách nhiệm đối với lựa chọn của cá nhân. Thay vì thừa nhận bản thân là tác giả của các quyết định mình đưa ra, chúng ta đổ lỗi cho người khác hoặc cho hoàn cảnh bên ngoài (vd: số phận), cho các vai trò được xác định trước (vd: “Đó là một phần công việc của tôi”), hoặc cho hoàn cảnh không thể tránh khỏi (vd: “Tôi biết điều đó không tốt, nhưng tôi chỉ làm theo lệnh của sếp thôi”).

Chúng ta tự “đóng kịch” trong nội tâm, tự thuyết phục mình rằng ta không có lựa chọn nào khác – rằng hành động của ta bị chi phối bởi điều gì đó nằm ngoài ý muốn.

Một biểu hiện khác của ngụy tín là tuân theo các chuẩn mực/ kỳ vọng xã hội một cách mù quáng MÀ KHÔNG CẦN suy xét từ góc độ cá nhân. Cụ thể, chúng ta theo đuổi những con đường sự nghiệp, mối quan hệ hoặc lối sống cụ thể – chỉ vì chúng được gia đình, cộng đồng hoặc xã hội coi là “tốt”, là “chuẩn mực”.

Một cách chủ đích, chúng ta tự chống chế rằng ta chỉ đang hoàn thành vai trò được giao phó – làm “một người con ngoan”, “một chuyên gia có trách nhiệm”, “một công dân sống theo quy định xã hội”.

Chúng ta từ chối khả năng phán đoán và tư duy phản biện, không dám nhận lấy trách nhiệm đối với cuộc sống cá nhân, để thay vào đó đơn giản chấp nhận những “kịch bản” được định sẵn.

Ngụy tín là khi ta cố tình tránh đối mặt với một quyết định trung thực để tuân theo khuôn khổ hành vi thông thường.

John Macquarrie

Chúng ta có thể ít nhiều thông cảm cho thói ngụy tín, vì nó giúp ta đảm bảo sự thoải mái về mặt tâm lý. Suy cho cùng, trách nhiệm đi kèm với lựa chọn, nguy cơ mắc sai lầm, phải gánh chịu toàn bộ hậu quả từ quyết định của mình – những điều này thật chẳng dễ chịu chút nào. Hành vi ngụy tín, do đó, mang lại một lối thoát, một ảo tưởng giúp giảm bớt nỗi lo hiện sinh.

Thế nhưng, sự thoải mái có cái giá của nó – ít nhất là trong một số tình huống nhất định. Lựa chọn của chúng ta, khi được đưa ra một cách thiếu chân thực, rất dễ dẫn đến hậu quả như: sự nghiệp bất mãn (dù nhìn bên ngoài rất thành công), hoặc những mối quan hệ trống rỗng – dù đáp ứng kỳ vọng của xã hội.

Đây là điều sẽ xảy ra khi ta đưa ra những quyết định chỉ để xoa dịu người khác hoặc áp lực bên ngoài, thay vì hướng đến tiếng nói của bản thể bên trong.

Sự bất định (Uncertainty)

Lúc mới đi làm, tôi có cơ hội được làm việc ở một công ty khá tốt – về nhiều phương diện khác nhau. Môi trường hỗ trợ, tinh thần làm việc nhóm cao, văn hóa doanh nghiệp tích cực, kể cả mức lương cũng không quá tệ. Thành thật mà nói, không có công ty nào sau này của tôi thực sự giống được như ở đây.

Thế nhưng, công việc tôi làm thì lại rất… chán. Không có nhiều cơ hội để phát triển kỹ năng cũng như tư duy (nếu quan tâm, bạn đọc có thể tìm hiểu thêm về trải nghiệm của tôi với công việc này tại đây).

Sau hai năm, tôi thấy bản thân ở trong một tình thế “tiến thoái lưỡng nan”: tôi có nên ở lại nơi chốn thoải mái này, “cam tâm” với một môi trường dễ chịu nhưng thiếu cơ hội phát triển? Hay là tôi nên mạo hiểm đi ra ngoài kia, tìm kiếm những thử thách mới để phát huy tiềm năng của mình, ngay cả khi nó có nghĩa là phải từ bỏ những gì đã quen thuộc?

Tôi tin rằng, ai trong chúng ta cũng đều từng trải qua tình huống tương tự. Mọi quyết định, dù được cân nhắc kỹ lưỡng đến đâu, đều đòi hỏi ta phải thực hiện một bước nhảy của niềm tin (leap of faith) vào trong “cõi vô định”. Và thường thì, đó không phải là trải nghiệm dễ chịu chút nào.

lựa chọn đúng đắn trong cuộc sống

Sự cần thiết phải đưa ra những lựa chọn đúng đắn trong cuộc sống

Khuynh hướng tự nhiên của con người là sợ hãi những điều không quen thuộc. Tâm trí chúng ta được lập trình để tìm kiếm các khuôn mẫu, giúp ta dự đoán và kiểm soát tình hình.

Sự không chắc chắn phá vỡ mong muốn này. Nó đe dọa cảm giác an toàn và khả năng lường trước/phòng ngừa hậu quả của những điều ta làm.

Khi đối mặt với những lựa chọn quan trọng trong cuộc sống – thay đổi nghề nghiệp, cam kết trong mối quan hệ, di chuyển chỗ ở – chúng ta phải đối mặt với một loạt những điều chưa biết. Hướng đi mới này sẽ dẫn đến sự viên mãn hay thất vọng? Mối quan hệ này sẽ mang lại niềm vui hay nỗi đau khổ? Việc chuyển chỗ ở sẽ cải thiện cuộc sống của tôi hay chỉ khiến nó càng thêm mất ổn định?

Suy ngẫm về những câu hỏi này khiến nhiều người bị “tê liệt” về mặt tinh thần. Hệ quả là, họ CHỌN bám víu vào thực tại, ngay cả khi nó không thỏa mãn hoặc thậm chí khiến họ đau khổ.

Chúng ta CHỌN ở lại trong trạng thái tuyệt vọng thầm lặng – xuất phát từ nỗi sợ đưa ra lựa chọn “sai lầm” và phải đối mặt với những hậu quả tiêu cực theo sau đó. Cảm giác khó chịu khi “trì trệ” một chỗ, tuy rất thật, song vẫn được xem là ít đáng sợ hơn so với việc mạo hiểm thay đổi.

Nghịch lý của sự lựa chọn

Khái niệm nghịch lý của sự lựa chọn (the Paradox of Choice) – do nhà tâm lý học Barry Schwartz đề xuất – đưa ra một cái nhìn trái ngược hoàn toàn với quan niệm truyền thống. Theo đó, việc có quá nhiều lựa chọn có thể khiến cá nhân bị suy giảm cảm giác hài lòng, trong khi lại gia tăng sự lo lắnghạn chế khả năng ra quyết định.

Trong thế giới hiện đại, đặc biệt ở các quốc gia phát triển, con người sinh ra có rất nhiều lựa chọn – từ những thứ bình thường như nhãn hiệu cà phê và dịch vụ phát trực tuyến, cho đến con đường sự nghiệp, mối quan hệ và lối sống. Điều này thường được phương tiện truyền thông xã hội ca ngợi là thành quả đáng mong chờ của tự do và tiến bộ.

Tuy nhiên, thay vì vui vẻ khi có nhiều lựa chọn, nhiều người trong chúng ta lại cảm thấy gánh nặng, căng thẳng và ít hài lòng hơn với sự lựa chọn của mình.

Chúng ta trở thành nạn nhân của một hiện tượng gọi là “chứng mệt mỏi khi phải ra quyết định” (decision fatigue). Việc phải cố gắng đánh giá và so sánh các lựa chọn làm cạn kiệt năng lượng tinh thần. Đến lúc thực sự đưa ra quyết định, đặc biệt là đối với những vấn đề kém quan trọng, chúng ta thường bị kiệt sức về mặt tinh thần, ít hài lòng hơn với lựa chọn cuối cùng của mình, cũng như ít hào hứng hơn khi phải ra quyết định ở lần sau.

Chứng mệt mỏi này có thể lan sang các khía cạnh quan trọng hơn của cuộc sống, dẫn đến những quyết định vội vã, bốc đồng hoặc thậm chí là mất hoàn toàn khả năng ra quyết định.

Khi có ít lựa chọn, lẽ tự nhiên kỳ vọng của chúng ta cũng sẽ ở mức thấp – đồng thời, ta sẽ có xu hướng trân trọng hơn quyết định của mình. Ngược lại, khi đối mặt với nhiều lựa chọn, kỳ vọng của ta bị “thổi phồng” theo. Chúng ta bắt đầu bị ám ảnh bởi ý niệm về sự lựa chọn “hoàn hảo”, tối đa hóa mọi lợi ích có thể.

Khi đến lúc đưa ra lựa chọn, chúng ta dễ dàng bị ám ảnh bởi suy nghĩ “nếu như/ giá như … thì sao”. Chúng ta đã đưa ra lựa chọn tốt nhất có thể chưa? Chúng ta có thể hạnh phúc hơn với một lựa chọn khác không?

Chính hành vi tự so sánh và “phản đề” liên tục này là nguyên nhân làm suy giảm sự hài lòng – ngay cả với những lựa chọn đúng đắn – dẫn tới cảm giác hối tiếc sau khi ra quyết định.

Sự lựa chọn là của bạn

Tôi đã kể cho anh nghe hai câu chuyện về những gì đã xảy ra ngoài đại dương. Không câu chuyện nào giải thích được nguyên nhân khiến con tàu bị chìm, và không ai có thể chứng minh câu chuyện nào là đúng. Trong cả hai câu chuyện, con tàu đều bị đắm, gia đình tôi đều mất mạng, và tôi thì đều trải qua đau khổ. Vậy anh thích câu chuyện nào hơn?

Piscine Molitor Patel – “Cuộc đời của Pi”

Từ những phân tích trên đây, có thể thấy việc đưa ra lựa chọn trong cuộc sống không phải là cái gì đó đơn giản. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng qua lại đến quá trình này. Vậy thì, liệu rằng chúng ta có thực sự có quyền tự do lựa chọn hay không?

Về phần mình, tôi cho rằng trả lời “có” hay “không” hoàn toàn tùy thuộc vào quan điểm cá nhân – nói cách khác, tự câu trả lời của bạn đã LÀ một lựa chọn.

Bạn có thể CHỌN tin rằng mình chỉ là một “con rối” của số phận, hoặc có thể CHỌN tin vào khả năng định hình con đường của riêng mình, ngay cả giữa muôn vàn sự lựa chọn và các tác nhân ảnh hưởng bên ngoài.

Để minh họa cho điều này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu câu chuyện về một nhân vật hư cấu khá phổ biến trong văn hóa đại chúng: Anakin Skywalker trong Star Wars.

Trong trường hợp bạn chưa được biết, Star Wars là một thiên sử thi lấy bối cảnh ở một thiên hà xa xôi, nơi các sinh vật sống được kết nối bởi một trường năng lượng huyền bí được gọi là “The Force” (Thần lực). Khi mới sinh ra, Anakin Skywalker được tiên tri sẽ trở thành “Người được chọn” (The Chosen One), người đóng vai trò mang lại sự cân bằng cho Thần lực. Sở hữu năng lực trời phú phi thường, cậu được kết nạp vào Hội Jedi, một hội đồng hiệp sĩ cổ xưa – có nhiệm vụ gìn giữ hòa bình vũ trụ.

Tuy nhiên, dù khởi đầu đầy hứa hẹn, hành trình của Anakin sau đó đã chuyển sang một hướng đầy bi thảm. Bị ám ảnh bởi các thị kiến về tương lai – cùng nỗi sợ mất đi người thân yêu, anh đã bị Hoàng đế Palpatine thao túng – để rồi cuối cùng ngả về phe xấu và trở thành Darth Vader – một nhân vật khét tiếng, gây ra nỗi khiếp sợ khắp dải ngân hà.

Suốt cuộc đời, Anakin không ngừng bị “giằng xé” giữa số phận và ý chí tự do. Một mặt, theo tiên đoán của các trưởng lão – cũng như thị kiến của chính anh, dường như Anakin được định mệnh “an bài” để đi theo một con đường đã định sẵn.

Mặt khác, không ít lần Anakin đối mặt với việc phải lựa chọn giữa các “ngã rẽ” trong đời. Và anh đã CHỌN hành động theo nỗi sợ hãi, không tin tưởng Hội Jedi, để rồi cuối cùng đi về phe bóng tối.

Những quyết định này có thực sự được đưa ra cách tự do không?

Anakin có chỉ đơn thuần là nạn nhân của số mệnh, hay là chính anh phải chịu trách nhiệm về sự “sa ngã” của mình?

Mới gần đây, khi tìm hiểu về chủ đề này, tôi tình cờ lướt qua một bài đăng trên Quora và bắt gặp một số phân tích khá thú vị. Xin được chia sẻ với bạn đọc như dưới đây.

Anakin Skywalker định mệnh vs ý chí tự do

Anakin Skywalker định mệnh vs ý chí tự do

Anakin Skywalker có thực sự đã lựa chọn sự sa ngã của mình – hay đó là số mệnh của anh, được an bài bởi Thần lực?

Phân tích của Milan Miloradovic:

Thông điệp cốt lõi của Star Wars là về ý chí tự do – hoặc đầu hàng trước đam mê, hoặc chống lại nó. Anakin đã bị cám dỗ giống như Luke nhiều năm sau đó. Luke đã lựa chọn khác, ngay cả khi phải đối mặt với nguy cơ mất mạng. Còn Anakin thì đầu hàng nỗi sợ hãi của mình. Anh đã có thể đã lựa chọn khác không? Khả năng lớn là có đấy! Có nhiều yếu tố góp phần vào sự sa ngã của Anakin, ngoài sự yếu đuối của chính anh ta.

Vậy đó có phải là do số phận không? Có thể. Ngay cả trong Clone Wars cũng có gợi ý rằng, số phận của Anakin là trở thành Darth Vader.

Nhưng theo tôi, đó là vấn đề về tiềm năng. Mọi người đều thấy bóng tối trong anh – nhưng không ai thấy được viễn cảnh được “cứu rỗi”. Tiềm năng trở lại với ánh sáng của anh.

Trở thành Vader là lựa chọn có khả năng xảy ra cao nhất, xét theo yếu tố hoàn cảnh thực tế. Thế nhưng, tôi tin rằng Anakin đã có thể hành động khác đi.

Anakin Skywalker định mệnh vs ý chí tự do

Anakin Skywalker định mệnh vs ý chí tự do

Phân tích của Dan B:

Cơ bản, dựa theo chia sẻ của đạo diễn Lucas và cấu trúc câu chuyện, mọi sinh vật trong vũ trụ Star Wars đều có quyền tự chủ. Star Wars – giống như bất kỳ tác phẩm giả tưởng hay nào – là một phép ẩn dụ về các khía cạnh trong trải nghiệm con người. Một trong số đó là “tất cả chúng ta đều có quyền lựa chọn làm điều thiện hay điều ác, đi theo con đường nhanh hay con đường chậm mà chắc”.

Trong giới hạn nhất định, tất cả chúng ta đều có quyền “lựa chọn” – và đây chính là nền tảng của toàn bộ câu chuyện về Skywalker. “The Battle of Fates” xoay quanh những lựa chọn của Qui-Gon. Phần tiếp theo là về những lựa chọn mà Anakin, Padme và Obi-Wan đã đưa ra. Và cuối cùng, sự sa ngã của Anakin Skywalker và sự trỗi dậy của Darth Vader là do Anakin lựa chọn, với đầy đủ ý thức về điều mình đã làm.

Điều Anakin không có quyền lựa chọn là hoàn cảnh thực tế. Dù vậy đi chăng nữa, việc anh ta chọn sát hại trẻ em vô tội là điều không thể bào chữa được. Không lý do gì có thể biện minh cho việc anh ta chọn theo phe Sith – sẵn sàng loại bỏ bất cứ thứ gì cản đường mình – thay vì chỉ đơn giản bỏ đi và nói, “Không. Cả hai đều sai.”

Sự sa ngã của Anakin chắc chắn là lỗi của Palpatine. Lỗi của Yoda. Của Mace Windu. Của Obi-Wan Kenobi. Của Bá tước Dooku. Của Ahsoka Tano. Chắc chắn là lỗi của rất, RẤT NHIỀU Jedi. Thế nhưng, ngay cả điều đó cũng không thể phủ nhận trách nhiệm của Anakin đối với những lựa chọn anh đã đưa ra suốt cuộc đời mình.

Vậy thì, đó có phải là lỗi của Thần lực không? Không hề! Bản thân Thần lực không ra lệnh cho các sinh vật phải làm gì. Thần lực chỉ kêu gọi họ đi theo một con đường. Nếu họ chọn con đường đó, đó là mặt sáng của Thần lực. Nếu họ chọn một con đường khác, họ sẽ rơi vào mặt tối. Suốt cuộc đời, Anakin đã không ngừng được nhắc nhở về điều anh cần phải tránh: giết người mà không phải nhận hậu quả vì nó.

Anakin đáng lý ra đã có thể thay thế Tổ phụ; có lẽ đây chính là sứ mệnh ban đầu của anh. Sau đó, Thần lực đã cho anh hai lựa chọn:

  • Rời bỏ Hội Jedi với những Jedi khác cùng chí hướng, chờ đến khi Sidious hành động từ bên ngoài Hội, trong khi vẫn ứng nghiệm lời tiên tri – không bị khuất phục bởi một Chúa tể Sith.
  • Ở lại Hội, trở thành Đại sư và thay đổi Hội từ bên trong, hành động theo lời dạy và niềm tin của Qui-Gon và Obi-Wan Kenobi.

Và anh đã không chọn cả hai con đường trên. Có hàng chục cách để Anakin Skywalker phục vụ Thần lực và giúp vũ trụ trở nên tốt đẹp hơn. Một mình anh đã chọn làm điều xấu khi gia nhập phe Sith.

Như lập luận của hai fan trên đây, việc Anakin trở thành Darth Vader là điều có khả năng xảy ra; thế nhưng, đó không phải là một viễn cảnh đã được “an bài” từ trước. Có nhiều yếu tố bên ngoài góp phần vào sự sa ngã của anh – sai lầm của Hội Jedi, sự thao túng của Palpatine, thất bại của các sư phụ – song cuối cùng, chính Anakin đã chọn gia nhập phe bóng tối. Chính anh đã chọn làm những điều xấu xa, khủng khiếp nhất là sát hại trẻ em vô tội.

Bi kịch của Anakin Skywalker là tấm gương phản chiếu sống động về cuộc đấu tranh nội tâm của chúng ta – mỗi khi đối mặt với sự lựa chọn trong cuộc sống.

Quay trở lại câu hỏi: “Tôi có quyền lựa chọn hay không?”, một lần nữa, tôi dám khẳng định rằng, bản thân việc trả lời “có” hay “không” – tự nó đã là một lựa chọn.

Chúng ta có thể chọn nghĩ về bản thân như những con rối trên dây, được định sẵn bởi số phận hoặc hoàn cảnh. Hoặc, ta có thể chọn tin vào chính mình, vào khả năng quyết định cuộc đời – dù cho có bị chi phối bởi các tác nhân bên ngoài. Thật vậy, lựa chọn trả lời “có” hay “không” cho câu hỏi trên đây là do bạn tự quyết định.

Cũng giống như trong ‘Cuộc đời của Pi’, độc giả được giới thiệu hai câu chuyện khác nhau và được hỏi, họ muốn tin vào phiên bản nào hơn. Điều tương tự cũng đúng đối với sự lựa chọn trong cuộc sống – chúng ta có quyền quyết định câu chuyện mà chúng ta muốn tin về quyền tự quyết của mình.

Chúng ta có thể lựa chọn tin – hoặc không tin – vào khả năng lựa chọn của chính mình.

Về phần mình, tôi tin rằng một người khôn ngoan sẽ lựa chọn tin vào quyền tự quyết của mình. Nói cách khác, họ sẽ chọn quan tâm đến những gì nằm ở BÊN TRONG, thay vì BÊN NGOÀI.

sự lựa chọn là của bạn

Biểu hiện của sự lựa chọn

Bí quyết lựa chọn trong cuộc sống: Tư duy “khắc kỷ”

Có lẽ ai trong chúng ta cũng từng nghe nói về một thứ được gọi là “duyên khởi“. Về cốt lõi, nó đề cập đến bản tính kết nối của vạn vật. Một mặt, mỗi chúng sinh đều sở hữu ý chí và tự do riêng; mặt khác, tất cả phụ thuộc vào lẫn nhau để có thể tồn tại. Như giáo lý Phật giáo đã trình bày, “nếu cái này tồn tại, thì cái kia tồn tại; nếu cái này đoạn diệt, thì cái kia cũng đoạn diệt”.

Quả thực, chúng ta là những cá thể riêng biệt và độc lập; thế nhưng điều đó không thể phủ nhận thực tế rằng, mọi thứ trong cuộc sống này đều nằm trong khuôn khổ một mạng lưới các nguyên nhân và điều kiện liên kết với nhau. Do đó,  chúng ta cần ý thức (và hướng tới) một sự cân bằng tinh tế giữa “tôi” và “ta”, giữa cá nhân và tập thể, giữa tự do của bản thân với các yếu tố ảnh hưởng định hình nên thực tại này.

Không ai là một hòn đảo.

John Donne

Nhiều lần, chúng ta buộc phải đối mặt với những “ngã rẽ” – những sự cố bất ngờ, do nhân duyên mà xảy ra, khiến ta bị chệch hướng. Tuy nhiên, những ngã rẽ này không khiến ta đánh mất quyền tự quyết cá nhân.

Ngay cả khi buộc phải đi theo một con đường khác so với dự định ban đầu, thì định hướng cơ bản, hệ giá trị cốt lõi và khát vọng dẫn dắt ta không nhất thiết phải bị biến đổi theo.

Theo thiển ý của tôi, tất cả chỉ là vấn đề về nhận thức. Thường thì, do “vô minh” và thiếu nhận thức về bản thân, chúng ta không ý thức đầy đủ về các yếu tố ảnh hưởng, cũng như không hiểu rõ con người bên trong chính mình. Do đó, chúng ta đánh đồng những khoảnh khắc đi chệch hướng là “thất bại”, cũng như hoàn cảnh bên ngoài là do “số mệnh” đã an bài, không thể thay đổi.

Tuy nhiên, khi đạt tới mức độ trí tuệ nhất định, chúng ta có thể học cách nhìn nhận cuộc đời một cách sáng suốt hơn, chấp nhận thực tế như chân như của nó – để rồi cuối cùng, vượt lên khỏi giới hạn của cả số phận lẫn ý chí tự do.

Đó là khi bạn có thể phát huy quyền tự quyết trong khuôn khổ – tập trung năng lượng vào những gì nằm trong phạm vi kiểm soát của mình, trong khi bỏ qua tất cả những thứ còn lại (tác nhân ảnh hưởng bên ngoài, “duyên số”, dòng chảy của “số phận”).

Đối với tôi, đây không phải là thái độ cam chịu thụ động, mà chỉ là một cách khôn ngoan để sử dụng năng lượng tinh thần và cảm xúc. Làm như vậy, chúng ta hướng tự do của bản thân vào cái quan trọng nhất: suy nghĩ, hành động và phản ứng của mình. Giống như các triết gia Khắc kỷ đã phân tích, nó có nghĩa là “buông bỏ sự kiểm soát” – chú tâm nhiều hơn đến ý định, nỗ lực và phản ứng của cá nhân đối với các biến cố trong đời, thay vì bị ám ảnh bởi kết quả cuối cùng hay hoàn cảnh bên ngoài.

Nếu có thể thực hành theo nguyên tắc này, thì việc đưa ra những lựa chọn chân thực – không bị chi phối bởi tiếng nói bên ngoài – sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.

sự lựa chọn trong cuộc sống

Hãy thử nghĩ về những nhân vật lịch sử như Đức Phật Thích Ca mà xem. Sinh ra trong hoàng tộc với đầy đủ đặc quyền đặc lợi – được “an bài” để làm vua và hưởng thú vui trần thế, vậy mà Thái tử Siddhartha Gautama đã lựa chọn từ bỏ tất cả để dấn thân đi tìm mục đích tâm linh và chân lý cuộc đời.

Việc chứng kiến thực tế khắc nghiệt của vòng lặp Sinh-Lão-Bệnh-Tử đã khơi dậy trong Thái tử khao khát đối với sự khôn ngoan và giải thoát. Cuối cùng, ông CHỌN nhìn xa hơn giới hạn của thực tế tiện nghi trước mắt – bất chấp phản đối từ phía gia đình.

Quyết định từ bỏ tất cả của Thái tử được đưa ra một cách ý thức và có chủ đích. Và chính qua lựa chọn đó, ông đã vượt ra khỏi ràng buộc của số mệnh và hoàn cảnh – để cuối cùng giác ngộ thành Phật.

phật thích ca

Để tạm kết phần này, chúng ta hãy cùng phân tích ví dụ này nhé. Hãy thử hình dung bạn đang ở trong phòng gym. Sau một lúc tập luyện, cơ thể – yếu tố khách quan “bên ngoài” – sẽ gửi cho bạn tín hiệu của sự mệt mỏi, nhằm “kêu gọi” bạn hãy dừng lại. Đây là một giới hạn thể lý rất thực tế.

Tuy nhiên, từ bên trong, bạn hoàn toàn có thể quyết định nghe theo tiếng gọi cơ thể và dừng lại ngay lập tức, hoặc bạn có thể cố gắng hơn một chút.

Điều thú vị là, bằng cách liên tục CHỌN thách thức giới hạn bản thân (một cách điều độ và lành mạnh), từng ngày, bạn sẽ dần dần mở rộng tiềm năng của mình. Những giới hạn thể lý ban đầu bắt đầu “biến đổi” và không còn giới hạn bạn như trước nữa.

Ví dụ đơn giản này là minh họa về tác động của cái “bên trong” (ý chí, sự lựa chọn kiên trì của bạn) lên cái “bên ngoài” (sức khỏe, khả năng vận động của cơ thể).

Khi chúng ta liên tục thực hiện quyền tự quyết của mình – và đưa ra mọi sự lựa chọn dựa trên “kim chỉ nam” bên trong, chúng ta đồng thời tạo ra một vòng lặp phản hồi tích cực. Từng hành động tự quyết nhỏ (vd: chịu đựng sự mệt mỏi khi tập luyện, hoặc quyết định tuân theo các giá trị nội tại – thay vì khuất phục áp lực bên ngoài) sẽ dần tích lũy theo thời gian, củng cố sức mạnh bên trong và qua đó tái định hình thực tế “bên ngoài” – theo những cách thức rất vi diệu.

Một khi bạn đã quyết chí, vũ trụ sẽ hợp sức để biến nó thành hiện thực.

Ralph Waldo Emerson

Vì sao chúng ta gặp khó khăn khi đưa ra lựa chọn trong cuộc sống?

  1. Sự trì trệ

Trì trệ là khi bạn chủ đích duy trì trạng thái hiện tại, thay vì chuyển đổi sang trạng thái khác.

Marshall Goldsmith

Khi đối mặt với sự lựa chọn trong cuộc sống, chúng ta thường có xu hướng trì trệ – bám chấp vào những điều quen thuộc, ngay cả khi bên trong ta khao khát một hướng đi khác. Một ví dụ là khi bạn lựa chọn nằm dài trên ghế để xem tivi vào cuối tuần – một việc làm dễ dàng hơn nhiều so với việc bắt tay vào một dự án thú vị mới.

Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến thói quen trì trệ này – một số có thể kể đến như:

  • Sợ thay đổi

Về cơ bản, sự trì trệ xuất phát từ nỗi sợ những điều chưa biết – cũng như cảm giác khó chịu khi phải thay đổi. Nỗi sợ này đặc biệt đúng với những ai từng nhận lấy hậu quả tiêu cực từ các quyết định trong quá khứ (vd: thay đổi nghề nghiệp nhưng kết thúc không mấy tốt đẹp) hoặc những ai được cha mẹ quá “bảo bọc” – khiến họ không dám chấp nhận rủi ro.

Một nguyên nhân khác của thói quen này là mong muốn duy trì sự ổn định và khả năng dự đoán, bám víu vào cảm giác an toàn của những điều đã biết. Trong một số trường hợp, nó có thể biểu hiện ra thành hành vi “chây lì”, thậm chí là tự hủy hoại bản thân.

Bạn đã bao giờ nghe nói về một hiện tượng gọi là “hikikomori”, xảy ra khi cá nhân tự tách mình hoàn toàn khỏi xã hội bên ngoài chưa? Tuy không dễ để đưa ra một lời giải thích chung, song một số chuyên gia đã lập luận rằng có những trường hợp, nguyên nhân là bởi sự trì trệ – cụ thể, đương sự chọn cách ngoan cố ở trong nhà, rằng hành động đó mang lại cho họ một cảm giác quyền lực giả tạo, được người khác “thương hại”, thay vì can đảm bước ra ngoài để sống một cuộc sống “bình thường”.

CHÀNG THANH NIÊN: Trong đám bạn tôi, có một cậu cứ giam mình trong phòng suốt bao năm nay. Cậu ấy muốn ra ngoài và nếu được cũng muốn có một công việc nữa. Cậu ấy rất muốn “thay đổi” bản thân mình hiện giờ. Tuy nhiên, cậu ấy sợ ra khỏi nhà. Muốn thay đổi cũng không thể thay đổi.

TRIẾT GIA: Theo cậu, lý do gì khiến cậu ấy không thể ra ngoài?

CHÀNG THANH NIÊN: Tôi không rõ lắm. Có thể là do quan hệ với cha mẹ, hoặc cậu ấy từng bị sỉ nhục ở trường, ở nơi làm việc dẫn đến sang chấn tâm lý. Hoặc có khi ngược lại, là do cậu ấy được nuông chiều thái quá. Nói tóm lại tôi cũng không tiện dò hỏi kỹ quá khứ và hoàn cảnh gia đình cậu ấy.

TRIẾT GIA: Tóm lại là, trong quá khứ của người bạn cậu, đã xảy ra một sự kiện trở thành nguyên nhân gây sang chấn tâm lý hay gì đó. Và kết quả là cậu ấy không thể ra ngoài được nữa. Ý cậu là vậy phải không?

CHÀNG THANH NIÊN: Tất nhiên là vậy.

TRIẾT GIA: Nếu hiện tại của tất cả mọi người đều do các sự kiện trong quá khứ quyết định như cậu nói thì chẳng phải sẽ lạ lắm sao? Như vậy thì, nếu những người bị cha mẹ ngược đãi khi còn nhỏ mà lại không có kết quả giống như người bạn của cậu, tức là không giam mình trong phòng, thì sẽ không hợp lý.

Nếu chỉ chú ý đến nguyên nhân trong quá khứ, giải thích sự việc chỉ bằng nguyên nhân, vậy thì sẽ rơi vào quyết định luận. Nghĩa là cho rằng hiện tại rồi cả tương lai của chúng ta đều đã được quyết định bởi những sự kiện trong quá khứ, không thể thay đổi được.

Tâm lý học Adler nghĩ về mục đích trong hiện tại chứ không phải về nguyên nhân trong quá khứ.

CHÀNG THANH NIÊN: Mục đích trong hiện tại?

TRIẾT GIA: Không phải bạn cậu “lo lắng nên không dám ra ngoài”; mà ngược lại, tôi cho rằng cậu ấy không muốn ra ngoài nên tạo ra cảm giác lo lắng.

CHÀNG THANH NIÊN: Sao cơ?

TRIẾT GIA: Nghĩa là, bạn cậu đã có mục đích “không ra ngoài” trước rồi mới tạo ra cảm giác lo lắng, sợ hãi làm phương tiện để đạt được mục đích đó. Tâm lý học Adler gọi đó là “thuyết mục đích”.

Ichiro Kishimi – “Dám bị ghét”

cuộc sống của mình tự mình quyết định

Cuộc sống của mình tự mình quyết định

  • Thói quen trì hoãn

Khi từ chối buông bỏ một mối quan hệ độc hại, liên tục trì hoãn việc bắt đầu chế độ tập thể dục cần thiết, hoặc liên tục thoái thác theo đuổi kế hoạch sự nghiệp – chúng ta khiến cho bản thân ngày càng trì trệ và khó thay đổi hơn.

Đọc thêm: Thói quen hình thành tính cách như thế nào?

  • Ảo tưởng về thời gian

Đây là xu hướng đặc biệt phổ biến trong thế hệ trẻ. Lối suy nghĩ “Ồ, tôi còn nhiều thời gian mà” khiến nhiều bạn trẻ lãng phí thời gian vào những thú vui tầm thường – lướt mạng xã hội, xem nội dung phù phiếm, giải trí về đêm, v.v… xuất phát từ lầm tưởng rằng họ vẫn có thể đối mặt với các lựa chọn quan trọng trong cuộc sống vào “ngày mai”.

Tuy nhiên, chính ngộ nhận đó sẽ khiến bạn trở thành nạn nhân của sự trì trệ, ngăn cản việc sống có mục đích và chủ động mỗi ngày.

Một ngày nào đó bạn sẽ thức dậy và nhận ra rằng, không còn thời gian để làm những điều bạn hằng mong muốn nữa. Vì vậy, hãy hành động ngay từ bây giờ!

Paulo Coelho

  • Tự bào chữa

Ai cũng có những nghĩa vụ phải hoàn thành trong cuộc sống – trách nhiệm với gia đình, xã hội, cộng đồng. Và thường thì, chúng ta viện đến chúng như cái cớ để tránh đưa ra những lựa chọn khó khăn.

“Tôi không thể thay đổi nghề nghiệp bây giờ, tôi còn phải nuôi gia đình.”

“Tôi không thể theo đuổi đam mê của mình, tôi phải chăm sóc cha mẹ già.”

Hẳn là bạn không thể bỏ qua những trách nhiệm cá nhân này, song chính chúng cũng có thể trở thành nguyên nhân của sự trì trệ, ngăn cản bạn trung thực trong mọi quyết định.

Ở đây, thiết nghĩ cần lưu ý rằng, thói quen trì trệ không nhất thiết phải là điều gì xấu. Ngược lại, chính khi nhận thức về ảnh hưởng của nó, ta hoàn toàn có thể tận dụng nó cho mục đích thay đổi bản thân.

Khi chủ động tuân thủ theo những thói quen tốt, sự trì trệ sẽ trở thành “đồng minh” của ta. Việc hình thành thói quen tập thể dục buổi sáng, chuẩn bị bữa sáng mỗi ngày, v.v… những hành động này – được lặp đi lặp lại – sẽ ăn sâu vào tiềm thức và tạo thành “quán tính”, giúp bạn luôn vững vàng và nhất quán trong mọi hành động.

Chìa khóa nằm ở việc thực hiện bước đi đầu tiên. Để vượt qua sự trì trệ đòi hỏi bạn phải chủ động nỗ lực để thực hiện bước đầu tiên đó. Một khi đã bắt đầu, sự trì trệ sẽ đẩy bạn đi.

Giống như một quả cầu tuyết lăn xuống đồi, động cơ nội tại của bạn sẽ dần được củng cố ngày một mạnh mẽ. Từng hành động nhỏ, nhất quán, được thúc đẩy bởi nỗ lực ban đầu, sẽ tạo ra một vòng lặp phản hồi tích cực, giúp chúng ta dễ dàng tiếp tục tiến về phía trước hơn. Sự trì trệ, trước đây từng là trở ngại, thì giờ đã trở thành động cơ thúc đẩy ta hướng tới những lựa chọn chân thực và một cuộc sống viên mãn hơn.

Khi chúng ta phát triển những thói quen có ích – ví dụ, tập thể dục buổi sớm, chuẩn bị bữa sáng, đi làm theo cùng một con đường ngắn nhất – thì quán tính sẽ trở thành người bạn “chí cốt”, giúp ta luôn vững vàng, quyết tâm và nhất quán.

Marshall Goldsmith

  1. Định kiến trong tiềm thức

Tôi nhớ ngày xưa, mẹ từng gợi ý tôi theo đuổi hai con đường sự nghiệp: trở thành bác sĩ hoặc kỹ sư. Vào thời đó, tại nơi tôi sinh sống, những lựa chọn này được xem là “chuẩn mực”, cả về phương diện tài chính lẫn sự công nhận của xã hội.

Mặc dù cuối cùng tôi đã không đi theo con đường mẹ vạch ra, song ảnh hưởng từ suy nghĩ bà áp lên tôi thì không hề biến mất. Tôi quyết định chọn trường học và công việc dựa trên những tiêu chí “phù phiếm” bên ngoài – điểm chuẩn cao, công việc hứa hẹn thăng tiến, mức lương cạnh tranh, v.v…

Dù tôi không muốn thừa nhận, động cơ thực sự đằng sau các quyết định này không phải là đam mê, mà là mong muốn gây ấn tượng với người khác, được “nể” và công nhận thông qua những thành tựu bên ngoài.

Tôi tin rằng câu chuyện trên đây là minh họa cho một khía cạnh cơ bản trong trải nghiệm con người: ở mức độ nào đó, tất cả chúng ta đều là sản phẩm của định kiến trong tiềm thức – niềm tin, giá trị, cách suy nghĩ, phản ứng cảm xúc đã được “in vết” từ khi còn nhỏ, dù là do trải nghiệm thời thơ ấu, sự “tuyên truyền” của cha mẹ, chuẩn mực văn hóa, kỳ vọng xã hội, hay bị “nhồi sọ” bởi những tư tưởng/ học thuyết cụ thể, v.v…

Ngay từ lúc sinh ra, chúng ta đã được “hấp thụ” những thông điệp về bản thân, về thế giới và về những gì được coi là có giá trị, được chấp nhận và đáng mong muốn. Những “ý tưởng” này, được lặp đi lặp lại và củng cố theo thời gian, dần ăn sâu vào tiềm thức, trở thành một “hệ điều hành” âm thầm định hướng nhận thức, phản ứng và sự lựa chọn của chúng ta.

Phần lớn trường hợp, chúng ta không nhận ra ảnh hưởng của tiềm thức trong mọi việc mình làm. Chúng ta có thể tin rằng mình đang đưa ra quyết định hợp lý, cân nhắc cẩn thận mọi lựa chọn – trong khi thực tế, chúng ta chỉ đang hành động theo một “chương trình” được lập trình sẵn, các khuôn mẫu tư duy và cảm xúc đã ăn sâu vào tiềm thức.

Chính “chương trình” này đóng vai trò định hình các sở thích, mong muốn, nỗi sợ hãi, nguyện vọng và thậm chí là nhận thức về những lựa chọn có sẵn cho chúng ta ngay từ đầu. Nó giới hạn các lựa chọn được nhận thức, hướng chúng ta đến những quyết định phù hợp với nó, và dẫn ta đi theo những con đường mà, tuy có thể thành công bên ngoài, song thực tế hoàn toàn không mang lại sự thỏa mãn trong nội tâm.

tiềm thức thiên kiến

Ví dụ:

  • Niềm tin về giá trị bản thân: Những suy nghĩ được lập trình sẵn về giá trị vốn có (“Tôi không đủ tốt”, “Tôi cần chứng minh bản thân”) khiến nhiều người lựa chọn tìm kiếm sự công nhận bên ngoài – thay vì tự hoàn thiện từ bên trong.
  • Định kiếm về tiềm năng cá nhân: Quan niệm cố hữu về tài năng và hạn chế của bản thân (“Tôi không sáng tạo”, “Tôi không giỏi giao tiếp”) là nguyên nhân ngăn cản ta theo đuổi những con đường thực sự phù hợp nhưng “không thực tế” (theo suy nghĩ của ta).
  • Nhận thức về vai trò và kỳ vọng: Quan điểm của xã hội hoặc gia đình về giới tính, nghề nghiệp hoặc mối quan hệ (“Phụ nữ nên tỏ ra dịu dàng”, “Đàn ông nên giữ vai trò chu cấp gia đình”, “Thành công có nghĩa là thăng tiến trong công ty”) là lý do khiến cá nhân lựa chọn tuân theo các “kịch bản” có sẵn, thay vì lắng nghe nguyện vọng thực sự của họ.
  • Phản ứng có điều kiện: Định kiến về cách phản ứng với thành tích và thất bại (sợ thành công, sợ thất bại, tự làm hại bản thân, chủ nghĩa hoàn hảo) có thể tác động đáng kể đến khả năng đưa ra quyết định và theo đuổi các mục tiêu ý nghĩa.

Nhận thức được ảnh hưởng của tiềm thức là bước đầu tiên để vượt qua và làm chủ nó. Chúng ta cần ý thức các “chương trình” tư duy đang điều hướng lựa chọn của mình. Chỉ khi đó, ta mới có thể đánh giá lại và chủ động lựa chọn viết lại các “kịch bản” không còn có ích cho mình nữa.

  1. Khả năng làm chủ cảm xúc thấp

Chúng ta hãy cùng quay lại câu chuyện của Anakin Skywalker – cụ thể ở phương diện tác động của cảm xúc thiếu kiềm chế đối với lựa chọn cá nhân.

Tuy có nhiều nguyên nhân, một nhân tố chủ đạo dẫn tới sự sa ngã của Anakin là do những mâu thuẫn cảm xúc bên trong. Việc Anakin chọn đi theo phe bóng tối không diễn ra đột ngột, nhưng là kết quả của một quá trình “chuyển hóa” lâu dài, chịu ảnh hưởng của:

  • Nỗi sợ mất mát, cộng với “dư chấn” của tổn thương trong quá khứ;
  • Thái độ ngờ vực đối với các bậc trưởng lão, cảm giác bản thân bị phản bội;
  • Xung đột nội tâm, xuất phát từ tình yêu bị cấm đoán với Padme;
  • Sự bất ổn về mặt cảm xúc, khiến anh dễ bị người khác thao túng.

Từ câu chuyện của Anakin, tôi phần nào nhận thấy nỗi sợ hãi có thể làm sai lệch phán đoán ra sao – và rằng cảm xúc, khi ta không học cách quản lý và kiểm soát nó, có thể khiến người ta trở thành “con rối” và đi đến những quyết định khủng khiếp thế nào.

Mỗi ngày, mọi lựa chọn của chúng ta luôn bị chi phối bởi biết bao sự sợ hãi.

  • Nỗi sợ thất bại ngăn cản ta theo đuổi những con đường đầy thử thách nhưng hứa hẹn phần thưởng lâu dài. Ví dụ, lo lắng rằng mình sẽ không thành công trong dự án mới khiến nhiều người bị “mắc kẹt” trong một công việc không thỏa mãn, ngay cả khi mong muốn của họ là được khởi nghiệp.
  • Nỗi sợ bỏ lỡ thông tin (FOMO), đặc biệt phổ biến trong thời đại kỹ thuật số hiện nay, là nguyên nhân dẫn đến nhiều quyết định “bốc đồng”. Nó khiến ta dễ dàng chấp nhận các cam kết hoặc mua sắm những thứ không thực sự phù hợp với nhu cầu của mình, chỉ để bắt kịp với “chuẩn mực” xã hội.
  • Nỗi sợ phải hối tiếc khiến ta cam tâm “giam mình” trong thực trạng cuộc sống trì trệ hiện tại, ngay cả khi sự trì trệ đó chính là nguồn gốc của bất hạnh.

Khi liên tục từ chối dừng lại để suy ngẫm và kết nối với cảm xúc bên trong, chúng ta để bản thân trở thành nạn nhân của:

  • Quyết định bốc đồng: Bị choáng ngợp bởi cảm xúc tức thời, chúng ta rất dễ đưa ra những lựa chọn hấp tấp mà không cân nhắc đến hậu quả lâu dài. Ví dụ, sự tức giận khiến ta thốt ra những lời lẽ gay gắt, làm tổn thương đến các mối quan hệ. Hoặc, nỗi lo về tài chính khiến ta đi đến quyết định đầu tư vội vàng, không nghiên cứu kỹ lưỡng.
  • Tránh né: Việc sợ bị tổn thương khiến nhiều người cố tình tránh né các mối quan hệ thân mật; trong khi đó, nỗi lo nói trước công chúng có thể ngăn cản ta theo đuổi một công việc đòi hỏi phải thuyết trình, ngay cả khi ta thực sự đam mê công việc đó.
  • Dễ bị thao túng: Như trong câu chuyện của Anakin, khả năng làm chủ cảm xúc thấp khiến ta dễ dàng bị ảnh hưởng bởi tác động bên ngoài – vd: bị “lợi dụng” bởi các thông điệp marketing biết khai thác nỗi bất an bên trong, hoặc bị “giật dây” và trở thành “nạn nhân” của các diễn giả/ nhân viên bán hàng giỏi thuyết phục.

tự làm chủ

Đọc thêm: Thấu hiểu cảm xúc để cân bằng & thành công

  1. Tự lừa dối mình

Một trở ngại lớn khác đối với sự lựa chọn trong cuộc sống là thói quen tự lừa dối – không dám đối mặt với những sự thật khó chịu về bản thân và xử lý hậu quả đi kèm. Đó là khi ta tự “che mắt” mình khỏi thực tế khắc nghiệt mà ta không muốn thừa nhận, ngay cả khi nhận thức đó là rất quan trọng để có thể phát triển và hạnh phúc.

Trong tác phẩm bestseller “Thành công hôm nay chưa chắc thành đạt ngày mai” (tiếng Anh: What got you here won’t get you there), chuyên gia coaching Marshall Goldsmith đã thảo luận về xu hướng tự phủ nhận của con người như sau:

Tôi giờ ngoài 50. Ở độ tuổi của tôi, phản hồi quan trọng nhất mà tôi cần có là một cuộc kiểm tra sức khỏe hàng năm. Tôi đã cố gắng thoái thác việc đi bác sĩ suốt bảy năm. Không dễ để làm như vậy, song tôi không ngừng tự nhủ, “Mình sẽ đi khám sức khỏe sau khi thực hiện chế độ ăn ‘lành mạnh’. Mình sẽ đi khám sau khi bắt đầu tập luyện thể dục. Mình sẽ đi sau khi có được vóc dáng cân đối”.

Tôi đang lừa dối ai đây? Bác sĩ? Gia đình? Hay là chính bản thân tôi?

Bạn đã bao giờ từ chối đi khám sức khỏe và tự nhủ điều tương tự chưa?

Về chuyện đi khám răng thì sao? Đã bao giờ bạn, sau khi cố gắng thoái thác càng lâu càng tốt, cuối cùng đã dành ra vài ngày trước khi gặp nha sĩ để vệ sinh răng miệng một cách “điên cuồng” nhất?

Phải thừa nhận rằng, một phần nguyên nhân của hành vi này là do tính háo thắng, mong muốn được nhìn nhận là người “hoàn hảo”. Chúng ta chuẩn bị vì muốn “ghi điểm” trong mắt bác sĩ/ nha sĩ.

Tuy nhiên, tôi khẳng định rằng nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ mong muốn trốn tránh sự thật – thường là những gì chúng ta đã biết. Chúng ta biết mình cần đến gặp bác sĩ/ nha sĩ, nhưng không làm như vậy – bởi vì ta không muốn nghe những gì bác sĩ/ nha sĩ sẽ nói. Chúng ta cho rằng nếu không chủ động tìm kiếm thông tin xấu, thì sẽ chẳng có tin xấu nào cả.

Chúng ta cũng hành động tương tự trong cuộc sống cá nhân. Ví dụ, khi thực hiện đào tạo cho một tổ chức bán hàng, tôi đã tổ chức một bài kiểm tra tại chỗ cho đội ngũ bán hàng như sau.

“Công ty có dạy anh chị cách xin ý kiến góp ý từ khách hàng không?” Rất nhiều tiếng ‘có’ vang lên.

“Có hiệu quả không? Anh chị có biết được cần cải thiện ở đâu không?” Tiếp tục những tiếng ‘có’ khác.

Rồi tôi chuyển hướng sang cánh đàn ông: “Các anh có làm như vậy ở nhà không? Các anh có bao giờ hỏi vợ mình ‘Anh có thể làm gì để trở thành một người chồng tốt hơn?’”

Im lặng.

“Các anh có tin là nên làm như vậy không?” Tôi hỏi. “Tất nhiên rồi!” họ đồng thanh trả lời.

“Tôi cho rằng người bạn đời của các anh thì quan trọng hơn khách hàng, đúng không?” Tất cả đều gật đầu.

“Thế thì tại sao các anh không làm như vậy ở nhà?”

Sự thật ngay lập tức được hé lộ: Mọi người sợ câu trả lời mà họ sẽ nhận được. Và tệ hơn nữa, họ sợ sẽ phải làm gì đó sau khi biết được câu trả lời.

Chúng ta cũng hành động tương tự đối với những khiếm khuyết của mình. Chúng ta cho rằng nếu không xin người khác góp ý, thì chẳng có gì để chê trách về bản thân cả.

Đây là một suy nghĩ rất phi logic. Tốt hơn hết là đi tìm sự thật thay vì phủ nhận nó.

Tôi phải thú thực rằng, bản thân tôi cũng không phải là ngoại lệ đối với thói tự lừa dối này. Bình thường, tôi khá “cẩu thả” trong việc vệ sinh răng miệng. Thế mà, cứ mỗi khi chuẩn bị đi khám răng, thì vài ngày trước đó, tôi đột nhiên thay đổi thói quen và chải răng kỹ nhất có thể – chỉ để không bị nha sĩ la là chăm sóc răng không kỹ.

Sự thật là: Tôi không thực sự quan tâm đến sức khỏe, mà chỉ muốn “vượt qua bài kiểm tra”, muốn thể hiện vẻ ngoài có trách nhiệm, để không phải cảm thấy khó chịu hay tự ti về bản thân.

Thái độ trốn tránh thực tế này là rào cản lớn với quá trình đưa ra lựa chọn trong cuộc sống – tác động không chỉ đến hành động, mà còn cả về nhận thức cá nhân. Nó biểu hiện ra khi ta:

  • Tránh đối mặt với quyết định khó khăn trong sự nghiệp, mối quan hệ căng thẳng hoặc vấn đề sức khỏe – bằng cách tự làm cho mình “bận rộn” với những công việc ít quan trọng, hoặc những thú vui phù phiếm.
  • Tìm cách viện cớ, “lý do lý trấu” để giải thích cho sự không nhất quán giữa hành động và giá trị bản thân, hoặc để biện minh cho những lựa chọn bị thúc đẩy bởi nỗi sợ hãi hoặc sự thoải mái. Ví dụ, “Tôi chọn gắn liền với công việc nhàm chán này để được ổn định”, trong khi lý do thực sự là sợ thay đổi. Hoặc “Tôi không thể dành thời gian chăm sóc sức khỏe ngay bây giờ, vì tôi bận rộn nhiều việc quá”, trong khi nguyên nhân sâu xa là do thói vô kỷ luật.
  • Gạt bỏ những lời chỉ trích mang tính xây dựng, chỉ kết nối và qua lại với những ai “công nhận” ta (dù rằng sự công nhận đó có thực lòng hay không).
  • Đưa ra quyết định dựa trên mong muốn mà không quan tâm đến thực tế (vd: tiếp tục một công việc kinh doanh thất bại mà không chịu nhìn nhận điều kiện thị trường có còn phù hợp hay không).

Thói tự lừa dối là nguyên nhân khiến nhiều người luôn sống trong trạng thái “ảo tưởng” và đưa ra lựa chọn trên cơ sở nhận thức sai lệch về thực tế.

  1. Lòng tham

Rừng vàng hai ngả chia đôi
Tiếc rằng không thể, hai lối cùng đi.

Robert Frost

Cuộc sống luôn đầy rẫy những “ngã rẽ”; trong phần lớn trường hợp, lựa chọn một con đường có nghĩa là từ bỏ những con đường khác. Thế nhưng, chúng ta lại thường không chấp nhận thực tế này. Chúng ta tự nhủ rằng mình có thể – và nên – cố gắng đạt được mọi mục tiêu, trở thành người “hoàn hảo” nhất có thể.

Thái độ “tham lam” này chịu ảnh hưởng không nhỏ của phương tiện truyền thông xã hội, vốn có xu hướng đề cao sự “hoàn hảo” và các cơ hội trong cuộc sống. Trong bối cảnh xã đó, thật dễ để con người bị cuốn vào vòng xoáy của phiền não và mong muốn có nhiều hơn nữa, liên tục cảm thấy thiếu thốn và cần phải vươn tới một cuộc sống “chuẩn mực” nào đó.

Chúng ta bắt đầu tin rằng mình cần phải xuất sắc trong mọi lĩnh vực, phải thể hiện những phẩm chất đáng mơ ước, phải trở thành phiên bản “hoàn hảo” – một ảo ảnh bị thúc đẩy bởi những so sánh bên ngoài và hình mẫu lý tưởng trên mạng.

TS. Marshall Goldsmith, trong tác phẩm của mình, đã đưa ra một quan điểm phản biện lại cái bẫy cầu toàn này như sau:

Bạn không thể và không cần thiết phải là tất cả mọi thứ đối với tất cả mọi người. Nếu có một danh sách 39 phẩm chất của người giám đốc điều hành mẫu mực, tôi sẽ không bao giờ khuyến khích bạn phải hoàn hảo trong toàn bộ 39 khía cạnh đó. Bạn chỉ cần cải thiện một vài trong số đó. Ngay cả khi bạn không đáp ứng được phần lớn danh sách 39 phẩm chất đó, thì điều đó có tệ không? Có tệ đến mức đáng để sửa chữa không?

Nếu không thì đừng lo lắng gì cả.

Tôi được biết rằng Michael Jordan, người được mệnh danh là tuyển thủ bóng rổ tài năng nhất, chỉ là một tuyển thủ bóng chày tầm thường – một golf thủ phải cố gắng lắm mới theo kịp 20 người chơi golf sống trong khu hàng xóm quanh nhà tôi ở San Diego.

Nếu Michael Jordan – hình mẫu chuẩn mực cho các tuyển thủ bóng rổ khác – chỉ có thể xuất sắc ở một môn thể thao, thì điều gì khiến bạn nghĩ mình có thể làm tốt hơn anh ta?

Chúng ta cần phải nhận ra sự vô lý của khuynh hướng cầu toàn này. Chấp nhận sự không hoàn hảo không phải là cái cớ cho sự tầm thường hay đưa ra những lựa chọn tồi; đó chỉ đơn giản là chấp nhận thực tế – thực tế về giới hạn bản thân, thời gian và năng lượng có hạn của mình, rằng chúng ta không thể là tất cả mọi thứ, làm mọi thứ, có mọi thứ.

Ví dụ, chấp nhận sự không hoàn hảo trong lựa chọn nghề nghiệp không có nghĩa là cam tâm với một công việc mà bạn THỰC SỰ không thích. Đúng hơn, nó có nghĩa là suy nghĩ thực dụng và ưu tiên những gì thực sự quan trọng đối với bạn trong sự nghiệp – công việc có ý nghĩa, cân bằng công việc – cuộc sống, khả năng phát huy tính sáng tạo hoặc thử thách trí tuệ – và thừa nhận rằng bạn có thể không tìm thấy một vị trí hoàn toàn đáp ứng mọi tiêu chí (lương cao, danh tiếng, ít căng thẳng, tự do sáng tạo, v.v…).

sự lựa chọn trong cuộc đời

Sự lựa chọn trong cuộc sống

Một khía cạnh khác cần lưu ý của lòng tham là mong muốn được thỏa mãn ngay lập tức. Trong bối cảnh xã hội hưởng thụ hiện tại, thật dễ để suy nghĩ này tác động đến sự lựa chọn của ta trong cuộc sống.

Ví dụ, rất nhiều người bắt đầu hành trình rèn luyện sức khỏe với kỳ vọng sẽ có sự thay đổi nhanh chóng, nhưng lại nản lòng và bỏ cuộc giữa chừng khi mọi thứ diễn ra khá chậm và đòi hỏi họ phải nỗ lực bền bỉ.

Hoặc, một người ôm mộng trở thành nhà văn có thể từ bỏ khát vọng sau khi bị nhà xuất bản từ chối vài lần; họ không muốn phải trải qua quá trình mài giũa kỹ năng lâu dài, cũng như sợ phải đối mặt với thất bại không thể tránh khỏi.

Thái độ thiếu kiên nhẫn này là biểu hiện sống động của lòng tham – mong muốn gặt hái thành quả từ lựa chọn của mình mà không sẵn sàng đầu tư thời gian và công sức cần thiết.

  1. Không có ranh giới rõ ràng

Gần đây, một người bạn cũ của tôi đã chia sẻ về những khó khăn chị gặp phải với một nhân viên cấp dưới – một người rất đa nghi và thường xuyên mâu thuẫn với đồng nghiệp. Anh ta tin rằng mọi người, đặc biệt là tổng giám đốc, đều ích kỷ và có ác cảm với anh ta.

Sau khi nghe bạn tôi tâm sự, tôi trả lời rằng theo tôi, người cấp dưới đã chủ đích lựa chọn suy nghĩ như vậy; điều duy nhất chị có thể làm là chấp nhận nó. Tuy nhiên, bạn tôi ngay lập tức phản đối ý tưởng này.

“Chị không thể để nó như vậy được!”

Từ câu trả lời trên, tôi không thể không suy ngẫm về khuynh hướng chung của con người: xu hướng tin tưởng, một cách vô thức, rằng chúng ta là “cái rốn” của vũ trụ. Rằng ta có “trách nhiệm” can thiệp vào những vấn đề mà thực tế ta không thể kiểm soát hay tác động đến được.

Cảm giác tự tôn quá mức, sự nhầm lẫn về ranh giới cá nhân này là nguyên nhân làm lu mờ năng lực phán đoán, khiến ta gặp khó khăn khi đưa ra sự lựa chọn trong cuộc sống.

Ngày trước, trong lúc lướt mạng, tôi tình cờ đọc được một câu chuyện rất đáng suy ngẫm như sau:

Trước đây, tôi từng là luật sư. Khi học luật năm nhất, tôi nhớ mình từng trải qua khủng hoảng và không thể tưởng tượng được, làm sao tôi có thể đại diện cho một khách hàng mà tôi tin là có tội.

Một ngày nọ, tôi ở lại sau giờ học để nói chuyện với giáo sư luật hình sự của tôi về vấn đề này. Và ông khẳng định, nếu khách hàng nói với tôi rằng anh ta có tội, thì về mặt đạo đức, tôi không thể đưa ra lời biện hộ vô tội cho anh ta được.

Tôi cảm thấy khá hơn khi nghe ông nói như vậy.

Nhưng ngay lập tức, ông nhấn mạnh rằng hầu hết mọi khách hàng đều tuyên bố họ không có tội.

Và thế là tôi, một lần nữa, lại chìm trong lo lắng.

“Carey, nếu anh nghĩ người khách hàng có tội, nhưng anh ta lại nói mình vô tội thì sao… điều đó có khiến anh bối rối không?”

Và tôi không bao giờ quên câu trả lời sau đó của ông.

“Anh đang nhầm lẫn vai trò của mình, Carey. Anh không phải thẩm phán. Anh là luật sư. Công việc của anh là – về mặt đạo đức, luân lý và pháp lý – giúp cho thân chủ của anh có được trải nghiệm tốt nhất tại tòa án. Chính thẩm phán mới là người quyết định thân chủ của anh có tội hay không.”

Tôi cảm thấy như thể gánh nặng của thế giới được trút bỏ khỏi vai mình.

Khi không nhận thức đầy đủ về phạm vi nghĩa vụ & trách nhiệm của mình, hệ quả tất yếu là chúng ta sẽ rơi vào tình trạng xét đoán – cả đối với bản thân lẫn người khác. Chúng ta xét đoán người khác vì không đáp ứng được kỳ vọng của mình, vì đã đưa ra những lựa chọn mà ta không muốn đưa ra, hoặc chỉ đơn giản là vì họ khác biệt. Và đến lượt mình, chúng ta xét đoán bản thân vì những thất bại trong quá khứ, vì không đáp ứng được các tiêu chuẩn không thực tế, hoặc vì không kiểm soát được những kết quả vốn nằm ngoài tầm ảnh hưởng của ta.

Mặt khác, khi tin rằng bản thân có trách nhiệm sửa lỗi hoặc tác động đến những tình huống nằm ngoài tầm kiểm soát của mình, chúng ta dễ dàng can thiệp quá mức vào chuyện của người khác – khi ta đưa ra lời khuyên mà không hỏi ý đối phương, áp đặt ý kiến ​​cá nhân lên họ. Chúng ta trở nên ám ảnh với việc kiểm soát các yếu tố bên ngoài, trong khi bỏ bê công việc tự khám phá bản thân bên trong (và do đó đưa ra những quyết định mà sau này ta phải hối hận).

  1. Suy nghĩ “sẽ ra sao nếu…”

Mới vài hôm trước, tôi tình cờ đọc được một bài viết trên Reddit như sau:

Bạn có bao giờ nghi ngờ các lựa chọn trong cuộc sống của mình chưa?

Tôi chỉ còn một năm nữa là đến 40. Tôi khá may mắn được sống ở một thành phố tôi yêu thích, có một người bạn đời mà tôi yêu quý, và người đó cũng yêu thương tôi. Cuộc sống có nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung, chúng tôi cảm thấy khá hài lòng, rằng mọi thứ đều diễn ra tốt đẹp trong 80% thời gian. Công việc của tôi mang lại thu nhập ổn, và tôi cũng được làm trong lĩnh vực mình thích; tuy rằng không phải là không có khó khăn. Tôi có bạn bè và một đời sống xã hội hài hòa. Tôi vẫn chờ đợi đến một lúc mình mong muốn có con, dù bây giờ chưa phải lúc đó. Mặc dù tất nhiên, thỉnh thoảng tôi vẫn tự nghi ngờ về việc mình đã không làm điều mà mọi người đều mặc định là nên làm.

Tôi chia sẻ những điều này để cho thấy rằng theo mọi thước đo khách quan, cuộc sống của tôi vẫn tốt đẹp. Không hoàn hảo, nhưng tốt hơn những gì tôi xứng đáng nhận được. Thế nhưng… có những ngày, như hôm nay, tôi cảm thấy vô cùng buồn bã, cố gắng bám víu vào những điều phù phiếm và tự hỏi, phải chăng mình đã đưa ra một số lựa chọn sai lầm. Nếu tôi đã sai về mọi thứ thì sao? Có khi nào đáng lý ra tôi nên sống một cuộc sống hoàn toàn khác không?

Thật thảm hại khi cảm thấy như vậy ở độ tuổi này, khi đã xây dựng được cuộc sống và giờ thì lại tự nhiên đặt câu hỏi về nó. Hay có khi nào, sự nghi ngờ này chỉ là hệ quả của sự trưởng thành, xảy ra khi chúng ta chọn một con đường đi theo nó – với niềm hy vọng rằng đây là con đường đúng đắn?

Các bạn có bao giờ cảm thấy như vậy không? Hay chẳng qua là tôi đang tỏ ra vô ơn mà thôi?

giữa muôn vàn sự lựa chọn

Quả thực, lối suy nghĩ “nếu như…” là một trong những thách thức lớn nhất khi cần đưa ra sự lựa chọn trong cuộc sống. Một hình thức tự giằng xé, khi chúng ta liên tục nhìn lại các quyết định trong quá khứ và tự hỏi, liệu chúng ta có đưa ra lựa chọn “đúng đắn” hay không, liệu ta có bỏ lỡ những cơ hội tốt hơn hay không, liệu cuộc sống của chúng ta có thể khác đi hay không, v.v…

Nếu tôi nhận lời mời làm một công việc khác thì sao? Nếu tôi vẫn giữ mối quan hệ trước thì sao? Nếu tôi chuyển đến một thành phố khác thì sao? Nếu tôi theo đuổi đam mê khác thì sao?

Khi quá ám ảnh với những suy nghĩ như vậy, chúng ta tự làm “xói mòn” cảm giác hài lòng với những quyết định đã đưa ra, làm gia tăng nỗi lo lắng về quá khứ và tương lai, để rồi đánh mất khả năng sống cho hiện tại.

Càng tự hỏi “giá như…” quá nhiều, chúng ta sẽ càng mất kết nối với tiếng nói bên trong, khiến ta khó tin tưởng vào phán đoán cá nhân, cũng như thật khó để cam kết toàn tâm toàn ý với con đường đã chọn.

khó khăn khi đưa ra lựa chọn trong cuộc sống

Khó khăn khi đưa ra lựa chọn trong cuộc sống

Gánh nặng trách nhiệm trong mọi lựa chọn

Where your treasure is, there your heart will be also.

(Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng trí anh ở đó)

Khi còn nhỏ, lần đầu tiên tôi bắt gặp câu trích dẫn trên đây là trong tiểu thuyết Harry Potter & Bảo bối tử thần. Lúc đó, tôi không hiểu ý nghĩa của nó lắm, một phần do bản dịch của Lý Lan khá tối nghĩa (bà dịch là “Của ngươi ở đâu, lòng ngươi ở đó”), cũng như do thiếu ngữ cảnh và chưa hoàn toàn trưởng thành về mặt nhận thức.

Về sau này, tôi phát hiện ra nó vốn là một câu trong Kinh thánh (Matthew 6:21), rằng nó cũng xuất hiện trong các tác phẩm văn học khác (vd: Nhà giả kim của Paulo Coelho). Và rằng có khá nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc ẩn chứa sau đó.

Với những ai chưa đọc qua Harry Potter, câu trích dẫn trên đây được Giáo sư Albus Dumbledore khắc lên trên bia mộ của mẹ và em gái. Ở tuổi đôi mươi, một Dumbledore trẻ tuổi, thông minh, bồng bột và đầy tham vọng đang lên kế hoạch cùng người bạn thân đi chu du thế giới. Thế rồi đột nhiên, mẹ ông qua đời, và Dumbledore phải từ bỏ hoài bão để gánh lấy trách nhiệm chăm sóc gia đình. Chính điều này khiến ông trở nên cay đắng và quyết định kết thân với phù thủy hắc ám Gellert Grindelwald – để rồi bỏ bê công việc chăm sóc nhà cửa và người em gái Ariana tật nguyền.

Quyết định này của Dumbledore – theo đuổi quyền lực và danh tiếng, thay vì bổn phận cá nhân – đã khiến ông phải trả giá đắt. Trong một lần tranh cãi với người em trai Aberforth, Grindelwald mất bình tĩnh và tấn công em trai ông; hệ quả là một trận đấu tay ba xảy ra. Vô tình, một câu thần chú đã tước đi mạng sống của người em gái Ariana. Sau trận đấu, Grindelwald bỏ trốn, còn mối quan hệ giữa Albus và Aberforth thì rạn nứt tới mức gần như không thể hàn gắn được.

Và Dumbledore, suốt quãng đời còn lại, không ngừng sống trong hối tiếc về quyết định của mình – điều đã xảy ra khi ông đặt tham vọng và quyền lực lên trên tình yêu và trách nhiệm. Chính sự hối tiếc này đã thúc đẩy ông khắc câu trích dẫn trên lên mộ của mẹ và em gái – như một lời nhắc nhở về cái giá của sự lựa chọn.

Tao là người con bé yêu quý nhất – không phải anh Albus. Khi về nhà, anh ấy chỉ ở trong phòng ngủ, đọc sách, đếm giải thưởng và viết thư cho ‘những tên tuổi trứ danh thời bấy giờ’.

Abeforth Dumbledore

Như bạn có thể thấy từ câu chuyện trên, sự lựa chọn của chúng ta, đặc biệt là những quyết định quan trọng, không chỉ tác động đến bản thân – mà còn đến cuộc sống của những người ta trân quý và xã hội xung quanh.

Chính khi nhận thức về gánh nặng trách nhiệm trong từng quyết định, chúng ta sẽ có động lực để suy xét cẩn thận và chân thực hơn trong từng lựa chọn của cuộc sống.

cân nhắc những chọn lựa

Bạn đã từng bao giờ nghe nói về một hiện tượng gọi là “hiệu ứng cánh bướm” (the butterfly effect) chưa? Đây là một lý thuyết có nguồn gốc từ thuyết hỗn loạn, nói về việc chỉ một thay đổi nhỏ trong các điều kiện ban đầu cũng đủ để dẫn tới hậu quả to lớn, không thể lường trước về sau. Nó cũng giống như việc một con bướm đập cánh ở Brazil; về mặt lý thuyết, hành động vỗ cảnh đó hoàn toàn có thể góp phần tạo nên một cơn lốc xoáy ở Texas vài tuần sau đó.

Tuy có vẻ hơi đơn giản hóa quá mức, song lý thuyết này cho thấy một đặc tính căn bản của sự lựa chọn trong cuộc sống: mỗi hành động, dù thoạt nhìn có vẻ tầm thường hay vô nghĩa, có thể khởi động chuỗi sự kiện lan tỏa ra bên ngoài – theo những cách mà ta khó mà lường trước được.

Có lẽ không có ví dụ nào minh họa cho ý tưởng này sâu sắc cho bằng câu chuyện của J. Robert Oppenheimer – người được mệnh danh là “cha đẻ của bom nguyên tử”. Trong Thế chiến II, chính phủ Hoa Kỳ giao cho ông nhiệm vụ lãnh đạo Dự án Manhattan – nhằm mục đích nghiên cứu và chế tạo vũ khí hạt nhân. Ban đầu, động cơ chính là để chấm dứt chiến tranh sớm, cũng như phòng ngừa việc Đức quốc xã phát triển thành công vũ khí hạt nhân trước Mỹ.

Và Oppenheimer, sau rất nhiều nỗ lực, đã tạo ra được bom nguyên tử.

Thế nhưng, hậu quả sau đó thì ông hoàn toàn không lường trước được. Hai quả bom thả xuống Hiroshima và Nagasaki đã gây ra sự hủy diệt khủng khiếp, khiến hàng trăm ngàn người vô tội thiệt mạng và tàn phế suốt đời. Đó là chưa kể đến sự mở ra của kỷ nguyên chạy đua vũ khi hạt nhân, sự khởi động của cuộc Chiến tranh Lạnh kéo dài suốt hàng chục năm, đặt nhân loại trong tình thế luôn phải đối mặt với mối đe dọa hủy diệt toàn cầu.

Oppenheimer, vốn ban đầu chỉ quan tâm đến khoa học và nghĩa vụ quốc gia, giờ phải đối mặt với hậu quả của những gì mình đã làm. Ông bị đặt vào một tình thế “tiến thoái lưỡng nan” về mặt đạo đức, đến mức phải thốt lên rằng:

Giờ thì tôi đã trở thành Thần chết, kẻ hủy diệt thế giới.

Nhận ra gánh nặng trách nhiệm mà ông và đội nhóm của mình phải gánh chịu, trong những năm hậu chiến, ông trở thành người ủng hộ mạnh mẽ cho việc kiểm soát năng lượng nguyên tử quốc tế – cũng như phản đối việc phát triển thêm các loại vũ khí hủy diệt khác. Ông lên án vụ đánh bom Nagasaki, bày tỏ sự hối tiếc sâu sắc về hậu quả tàn khốc do công nghệ mà ông đã phát minh ra, và không ngừng nỗ lực để giảm thiểu tác động của những mối nguy hiểm mà ông đã góp phần tạo ra.

Từ câu chuyện của Oppenheimer, chúng ta có thể thấy chỉ một quyết định trong phòng thí nghiệm đã dẫn tới một phản ứng dây chuyền trên phạm vi toàn cầu, tác động đến hàng triệu người và bối cảnh địa chính trị trong nhiều thập kỷ sau đó. Một minh chứng rất sống động về ảnh hưởng của sự lựa chọn trong cuộc sống, đặc biệt là những quyết định được đưa ra trên quy mô lớn – tầm cỡ quốc gia trở lên.

Thế nhưng, hiệu ứng cánh bướm và gánh nặng trách nhiệm không chỉ dừng lại ở tầm vĩ mô. Thực tế, những nguyên tắc này vẫn luôn hoạt động trong cuộc sống cá nhân của từng người.

Ví dụ, giả sử bạn quyết định theo đuổi giấc mộng khởi nghiệp. Một lựa chọn có vẻ mang tính cá nhân – nhưng thực tế, chính nó sẽ tạo ra rất nhiều cơ hội việc làm, tác động đến nhiều gia đình và nền kinh tế địa phương, thậm chí có thể dẫn tới sự ra đời của các sản phẩm/ dịch vụ mới.

Hoặc, hãy nghĩ đến việc lựa chọn bạn đời. Quyết định này không chỉ ảnh hưởng đến tương lai của bạn – mà còn đến người bạn đời, những đứa con tương lai cũng như gia đình đôi bên.

Ngay cả những lựa chọn có vẻ “vô thưởng vô phạt”, như cách ta đối xử với đồng nghiệp, nuôi dạy con cái hoặc tham gia vào cộng đồng, cũng góp phần vào một mạng lưới nhân-quả, theo những cách mà ta có thể không lường trước được.

Vậy thì, làm sao chúng ta có thể đưa ra lựa chọn trong cuộc sống mà không bị “tê liệt” bởi nỗi sợ – bởi những hậu quả có thể xảy ra sau đó?

Tôi tin rằng, chìa khóa không nằm ở việc trốn tránh trách nhiệm, mà là đón nhận nó một cách có ý thức. Nói cách khác, chúng ta cần phải luôn tỉnh thức trong quá trình ra quyết định – dành thời gian để cân nhắc tác động của từng lựa chọn, cả cố ý lẫn vô ý, trong khả năng có thể của mình.

Nó có nghĩa là luôn quan tâm đến người khác, thừa nhận sự tồn tại của nhân duyên, và nỗ lực đưa ra những lựa chọn đóng góp cho lợi ích cộng đồng – trong phạm vi ảnh hưởng cá nhân.

Và trên hết, nó có nghĩa là chấp nhận bản chất bất định, vô thường của cuộc sống. Chúng ta không thể lường trước mọi hậu quả, cũng không thể kiểm soát mọi kết quả. Thế nhưng, chúng ta có thể kiểm soát ý định, nỗ lực và cam kết luôn chính trực trong mọi lựa chọn của mình.

Giống như Dumbledore đã dành cả cuộc đời để bảo vệ thế giới phù thủy, hay như Oppenheimer đấu tranh cho hòa bình, chúng ta cũng có thể phấn đấu hành động cách tương tự – qua thái độ sống có trách nhiệm, không coi mình như một “hòn đảo” biệt lập.

Cuộc sống là tổng hòa của những lựa chọn. Có những lựa chọn khiến ta hối tiếc, một số khiến ta tự hào, số khác thì ám ảnh ta mãi mãi. Nói tóm lại, chúng ta trở thành thế nào là do lựa chọn của chính mình.

Graham Brown

lựa chọn sai lầm

“Hắn đã chọn sai” – Indiana Jones & cuộc Thập tự chinh cuối cùng

Bí quyết đưa ra sự lựa chọn đúng đắn trong cuộc sống

  1. Dành thời gian tự suy ngẫm

Việc đưa ra lựa chọn cuộc sống, như đã phân tích trên đây, không phải là đơn giản. Bước đầu tiên để đi đến những quyết định sáng suốt hơn nằm ở việc nuôi dưỡng nhận thức về bản thân, về thế giới nội tâm, cũng như con đường mà ta thực sự muốn đi.

Điều gì đã đưa bạn đến “đây”?

Hãy dành thời gian để nhìn lại chính mình – bao gồm hệ giá trị, niềm tin, điểm mạnh và điểm yếu của mình. Suy ngẫm về thực trạng hiện tại của bạn – những điểm tích cực, cùng những khía cạnh còn hạn chế – từ đó cố gắng xác định các nguyên tắc cốt lõi đã và đang hướng dẫn bạn, cũng như những định kiến trong vô thức đang khiến bạn có nguy cơ rời xa khỏi con đường đã chọn.

Lấy ví dụ, giả sử bạn suy ngẫm về hành trình sự nghiệp của mình và nhận ra những điều sau đây:

  • Giá trị cốt lõi: “Giúp đỡ người khác và mang lại tác động tích cực cho cộng đồng. Giá trị này được tôi thể hiện qua công việc tình nguyện và cả sở thích của mình.” (Nguyên tắc chỉ đạo)
  • Niềm tin tích cực: “Tôi luôn tin vào khả năng học tập kỹ năng mới và thích nghi với thử thách của mình. Điều này cho phép tôi đảm nhận nhiều vai trò khác nhau.” (Niềm tin dựa trên sức mạnh)
  • Niềm tin hạn chế: “Sâu thẳm bên trong, đôi khi tôi tin rằng mình không xứng đáng với thành công về mặt tài chính. Đây có thể là lý do tại sao tôi không tích cực theo đuổi cơ hội thăng tiến và tăng lương, ngay cả khi tôi đủ điều kiện.” (Định kiến tiềm thức – có thể là bắt nguồn từ những giáo huấn thời thơ ấu về sự giàu có)
  • Điểm yếu/tật xấu: “Tôi có xu hướng tránh đối đầu. Điều này đôi khi khiến tôi tự giam mình trong tình huống khó xử một cách quá đáng, thay vì trực tiếp nói chuyện với đối phương.” (Thói quen chưa tốt)

Điều gì sẽ đưa bạn tới “đằng kia”?

Một khi đã có nền tảng tự nhận thức vững chắc, chúng ta có thể chuyển sang câu hỏi tiếp theo: “Tôi thực sự muốn gì, và tại sao?” Hãy nghĩ về những mong muốn thực sự của bạn, vượt lên trên kỳ vọng bên ngoài và định kiến trong tiềm thức – cũng như động cơ thực sự đằng sau đó, xuất phát từ nhu cầu thực sự hay chỉ alf ý thích nhất thời/ muốn được người khác công nhận.

Sau đó, hãy đánh giá lại từng bước hành động, nguồn lực và cam kết cần thiết để “rút ngắn” khoảng cách giữa thực tế hiện tại và viễn cảnh tương lai bạn mong muốn. Mục đích không phải là đi đến một “kế hoạch 5 năm” chi tiết, mà là để đạt được định hướng rõ ràng, biến hoài bão thành hành động cụ thể.

suy ngẫm tự vấn

Chúng ta hãy cùng quay lại với ví dụ về sự nghiệp ở trên nhé. Sau khi suy ngẫm về quá khứ, giờ là lúc để bạn hình dung kế hoạc tương lai:

  • “Tôi muốn gì?” => “Tôi nhận ra mình không còn cảm thấy thỏa mãn với công việc hiện tại. Tôi khao khát một công việc cho tôi cơ hội trực tiếp giúp đỡ mọi người và tác động tích cực đến cộng đồng.” (Mong muốn chân thành, không bị chi phối bởi thực tế hiện tại)
  • “Tại sao tôi muốn như vậy?” => “Bởi vì tôi cảm nghiệm được sự thỏa mãn sâu sắc khi trực tiếp giúp đỡ người khác. Sự công nhận của xã hội và mức lương cao không khiến tôi mãn nguyện lâu dài. Tôi muốn cảm thấy công việc của mình có ý nghĩa thực sự.” (Động lực đích thực, không chỉ dừng lại ở khao khát bề nổi)
  • “Tôi sẽ cần những gì?” => “Để chuyển sang sự nghiệp mới, tôi sẽ cần nghiên cứu về các tổ chức phi lợi nhuận, tham gia một số khóa học về công tác xã hội hoặc tư vấn, kết nối với những người trong các lĩnh vực đó, cũng như chấp nhận rằng ban đầu thu nhập có thể không như ý. Tôi sẽ cần đầu tư thời gian, nỗ lực và sẵn sàng bước ra khỏi vùng an toàn.” (Biến mong muốn thành các bước hành động thực tế – cũng như thừa nhận cái giá phải trả)

Đặt câu hỏi cơ bản

Với những người ai mới bước đầu thực hành tự vấn, lời khuyên là bạn hãy bắt đầu bằng ‘những câu hỏi cơ bản’. Như TS. Marshall Goldsmith đã chỉ ra, một mặt, những câu hỏi hiện sinh sâu sắc như “Ý nghĩa của cuộc sống là gì?” thực sự rất đáng để suy ngẫm. Mặt khác, đối với những lựa chọn mang tính tức thời, tốt nhất ta nên đi từ những câu hỏi đơn giản và cụ thể hơn. Ví dụ:

  • Tôi có yêu thương người bạn đời của mình không?
  • Các bên liên quan nào sẽ chịu ảnh hưởng bởi quyết định của tôi?
  • Liệu cách tiếp cận này có khả thi trên thực tế không?
  • Tôi đã từng sai lầm ở chỗ nào trong những tình huống tương tự trước đây?

Những câu hỏi này thoạt nhìn có vẻ đơn giản; song nếu thực sự suy nghĩ kỹ, bạn sẽ nhận thấy bản thân phải rất trung thực để có thể đưa ra câu trả lời thỏa đáng.

Giả sử bạn đang cân nhắc cơ hội làm việc trong một môi trường năng động, áp lực cao, tương tự như các công việc trước đây. Bạn tự hỏi “Tôi có nên nhận lời hay không?”

  • Câu trả lời ban đầu: “Công việc này rất thú vị và danh giá! Tôi đã sẵn sàng cho thử thách mới!”
  • Sự kiện trong quá khứ: “Hai công việc gần đây rất áp lực và đã khiến tôi kiệt sức suốt 2 năm. Sức khỏe của tôi bị đi xuống, còn các mối quan hệ thì trở nên căng thẳng.”
  • Tiềm năng (và hạn chế) trong quá khứ: “Tôi biết mình có thể chịu được áp lực cao trong thời gian ngắn, nhưng tôi gặp khó khăn trong việc duy trì lâu dài mà không gây hại cho sức khỏe. Điểm mạnh của tôi là tư duy chiến lược, không phải là ‘dập lửa’ và giải quyết vấn đề trong chốc lát.”
  • Ý định trong quá khứ (so với kết quả thực tế): “Dự định trong quá khứ của tôi là thăng tiến trong sự nghiệp và đảm bảo an toàn tài chính. Thế nhưng, hóa ra tôi lại rơi vào tình trạng căng thẳng mãn tính và bất mãn, dù cho bề ngoài có vẻ ‘thành công’.”
  • “Sự thật trần trụi”: “Sâu thẳm bên trong, tôi rất sợ phải lặp lại chu kỳ kiệt sức đó. Bản năng mách bảo tôi rằng ‘thử thách thú vị’ này thực ra chỉ là một ảo giác, khiến tôi quên mất nhu cầu thực sự về sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống. Tôi có đang săp sửa phạm phải sai lầm trong quá khứ hay không?”

Qua ví dụ trên đây, ta có thể thấy việc suy ngẫm về các sự kiện trong quá khứ – bắt nguồn từ một câu hỏi cơ bản – có thể tiết lộ những động cơ sâu xa, những nhu cầu chưa được đáp ứng, cũng như khuynh hướng tự phá hoại bản thân ra làm sao.

Khi phân tích qua nhiều góc độ, một câu hỏi – thoạt nhìn có vẻ đơn giản – hoàn toàn có thể kích hoạt quá trình tự khám phá và hé lộ những sự thật sâu sắc về cuộc sống của bạn.

sự lựa chọn trong cuộc sống

Sự lựa chọn trong cuộc sống

Giá trị thực sự của việc tự phản ánh và đặt câu hỏi nằm ở việc giúp ta xác định tiêu chí ra quyết định. Bằng cách làm rõ hệ giá trị cá nhân, thừa nhận điểm mạnh-yếu cũng như mong muốn thực sự của mình, chúng ta tự tạo ra một chiếc “kim chỉ nam” giúp định hướng sự lựa chọn trong cuộc sống – cho phép ta luôn hành động thống nhất với quan điểm đạo đức, tránh để cảm xúc sợ hãi và nghi ngờ ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định.

Lấy ví dụ, nếu cân bằng công việc và cuộc sống là giá trị cốt lõi của bạn, bạn sẽ có thể – trên cơ sở nhận thức đó – từ chối những cơ hội làm việc có mức lương cao, song lại đòi hỏi phải đánh đổi quá nhiều.

Các hoạt động như viết nhật ký, thiền chánh niệm hoặc đi bộ có thể được kết hợp để tăng cường hiệu quả của quá trình tự phản ánh. Thông qua những hoạt động này, bạn sẽ có được một không gian riêng để tự vấn, tách rời khỏi những đòi hỏi cấp bách của cuộc sống hàng ngày và kết nối với tiếng nói bên trong. Chính khi đó, tâm trí sẽ trở nên sáng suốt và khôn ngoan, làm nền tảng cho những lựa chọn đúng đắn và chân thực hơn.

Đọc thêm: 200 câu hỏi về bản thân – Hành trang tự vấn mỗi ngày

  1. Cân nhắc hệ quả của từng quyết định

Ở bước thứ hai, công việc của mỗi người là cẩn thận phân tích hiệu ứng lan tỏa trong từng lựa chọn của mình, cũng như cân nhắc đến các phương án thay thế, xem xét cả hậu quả tức thời và lâu dài.

Ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc.’

Luke 14:28-30

Câu nói trên đây, tuy là trích từ kinh sách tôn giáo, cho thấy một sự thật cơ bản: việc đưa ra quyết định đòi hỏi phải lập kế hoạch cẩn thận và đánh giá về các nguồn lực cần thiết, những khó khăn tiềm ẩn, cũng như cơ hội đạt được kết quả mong muốn. Về bản chất, nó có nghĩa là cân nhắc chi phí và lợi ích tiềm ẩn trước khi cam kết đi theo một con đường, nhằm đảm bảo rằng bạn đã thực sự chuẩn bị cho hành trình phía trước.

Ngoài những cân nhắc về phương diện thực tế, chúng ta cũng cần suy ngẫm về những hệ lụy đạo đức xảy ra do hành động của mình. Nói cách khác, chúng ta cần nhìn xa hơn lợi ích cá nhân đơn thuần – để tính đến tác động rộng hơn của mỗi lựa chọn đối với người khác, cũng như đối với hình mẫu con người mà ta mong muốn trở thành. Chính khi đó, ta sẽ có được tinh thần trách nhiệm và hướng giá trị hơn trong từng quyết định đưa ra.

“Lựa chọn này sẽ ảnh hưởng thế nào đến hạnh phúc của những người xung quanh tôi?”

“Hành động này có phù hợp với nguyên tắc công bằng, lòng trắc ẩn và chính trực không?”

“Tôi đang tác động đến tương lai của bản thân và người khác như thế nào khi đưa ra quyết định này?”

“Liệu con đường này có góp phần mang lại một cuộc sống có mục đích và ý nghĩa không?”

Việc suy ngẫm này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh các mối quan hệ xã hội. Lấy ví dụ, gần đây tôi thường hay ghé thăm nhà chị gái để hỗ trợ chị vừa chăm sóc em bé mới sinh, vừa xử lý công việc nhà và ở công ty. Áp lực của việc phải làm quá nhiều thứ một lúc (cộng thêm với đứa bé hay quấy khóc) khiến chị tôi thường hay buông ra những lời nói giận dữ vô cớ.

Vào những thời điểm đó, tôi đứng trước hai lựa chọn: hoặc phản ứng lại bằng sự tức giận của chính mình (xét cho cùng, rất nhiều lúc chị tôi “nổi đóa” rất bất hợp lý), hoặc giữ bình tĩnh và im lặng.

Lựa chọn đầu tiên có thể khiến tôi thỏa mãn trong chốc lát, song hậu quả của nó – như bạn có thể hình dung – thật không dễ chịu chút nào.

Ngược lại, việc lựa chọn giữ bình tĩnh, tuy ban đầu khá khó khăn, đã giúp tôi duy trì được bầu không khí hòa hợp, tạo điều kiện cho cảm xúc các bên lắng xuống, tránh leo thang thêm.

cân nhắc lựa chọn đúng đắn

Và khi suy ngẫm về trải nghiệm này, tôi không thể không nhận ra một chân lý giản đơn khác: những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực thường khá khó kiểm soát, nhưng chúng cũng chỉ là VÔ THƯỜNG và sẽ qua đi trong chốc lát. Thế nhưng, hậu quả của những việc ta làm – đặc biệt nếu nó liên quan đến người khác – thì không hề dễ dàng khắc phục.

Đúng như Wayne W. Dyer đã nhận định:

Nếu phải lựa chọn giữa đúng đắn và tử tế, hãy chọn tử tế.

(If you have the choice between being right and being kind, choose being kind)

Việc ưu tiên thực hành lòng tốt hơn là cố gắng chứng minh mình “đúng” thường sẽ mang lại những kết quả tích cực và lâu dài hơn.

Một lựa chọn như vậy thì không hề dễ dàng – nó đòi hỏi rất nhiều sự nhẫn nại, trưởng thành về mặt cảm xúc, cũng như sẵn sàng đối mặt với những sự thật “trần trụi” về bản thân. Đó là lý do vì sao các thực hành tâm linh như thiền định, viết nhật ký, suy ngẫm hoặc cầu nguyện là rất cần thiết để luôn giữ cho bản thân đi đúng hướng.

Chúng ta có thể để hoàn cảnh sống làm mình chai sạn đến mức ngày càng oán giận và sợ hãi, hoặc chúng ta có thể để chúng khiến bản thân mềm lòng, tử tế và cởi mở hơn với những điều khiến ta sợ hãi. Quyền lựa chọn là của chúng ta.

Pema Chödrön

  1. Hạn chế các lựa chọn cuộc sống

Chúng ta thành công hơn khi có ít lựa chọn.

Marshall Goldsmith

Như đã đề cập phía trên, việc có quá nhiều lựa chọn, thay vì khiến ta cảm thấy tốt hơn, thường chỉ gây ra tình trạng lo lắng và giảm bớt sự hài lòng. Một giải pháp đơn giản mà hiệu quả để khắc phục vấn đề này, đó là chủ động hạn chế bớt các lựa chọn của mình. Nói cách khác, chúng ta cần loại bỏ bớt khỏi tâm trí những con đường không đóng góp vào định hướng cuộc đời của bản thân.

Ví dụ, giả sử quá trình phản tỉnh cho thấy bạn mong muốn một công việc có ý nghĩa và cân bằng, thì bước tiếp theo bạn cần làm là giới hạn số lượng lựa chọn – bằng cách chỉ tập trung tìm kiếm công việc ở các tổ chức phi lợi nhuận hoặc những đơn vị có sứ mệnh rõ ràng, ngay cả khi có những vị trí khác trả lương cao hơn.

Ngoài ra, điều này cũng đòi hỏi ta phải luyện tập để bớt bị “vướng bận” bởi những vấn đề nhỏ nhặt trong cuộc sống. Chẳng hạn, bạn có thực sự cần phải dành quá nhiều thời gian để băn khoăn về việc nên mặc quần áo như thế nào mỗi ngày, hoặc nên mua loại cà phê nào không? Những chuyện này, thoạt nhìn có vẻ không đáng kể, song nếu suy nghĩ quá nhiều, bạn rất dễ bị mệt mỏi khi ra quyết định và quên mất những ưu tiên có ý nghĩa hơn.

Thực hành hạn chế bớt lựa chọn trong cuộc sống là một nguyên tắc quan trọng trong chủ nghĩa khắc kỷ, vốn khuyên con người chỉ tập trung năng lượng vào những gì thực sự quan trọng – cũng như những gì nằm trong tầm với của mình.

Bạn luôn có quyền lựa chọn không có ý kiến. Không cần phải phiền não về những điều không thuộc quyền kiểm soát của bạn. Những thứ này cũng không đòi hỏi được bạn đánh giá. Cứ mặc kệ nó.

Marcus Aurelius

Xu hướng ám ảnh quá mức với việc “đu trend”, chạy theo các xu hướng xã hội thoáng qua, tự so sánh bản thân mình với những “người nổi tiếng” trên mạng, hoặc băn khoăn về những lựa chọn trong quá khứ – đây đều là biểu hiện của việc lãng phí nguồn lực vào những thứ không đáng. Bằng cách chủ đích loại bỏ những phiền nhiễu này, chúng ta giải phóng bớt năng lượng tinh thần và cảm xúc để dành cho những mục tiêu xứng đáng hơn.

hướng đi cuộc sống

Sự lựa chọn trong cuộc sống

Ở cấp độ sâu xa hơn, việc hạn chế các lựa chọn cuộc sống cũng đồng thời giúp cá nhân học cách buông bỏ – tự giải thoát mình khỏi sự kiểm soát của lòng tham. Qua đó, ta đồng thời nhận thức sâu sắc hơn về tính vô thường của vạn vật, cũng như tầm quan trọng của việc sống trọn khoảnh khắc hiện tại – thay vì theo đuổi những cơ hội thoáng qua.

Chính khi kiềm chế bớt lòng tham, trí tuệ sẽ được tạo điều kiện để phát triển, khiến ta sáng suốt hơn trong từng quyết định của mình.

Từ ngàn xưa, các triết gia như Lão Tử đã cổ võ thực hành triết lý sống Vô vi (Wuwei – 無為), khuyến khích con người sống có chủ đích và thuận theo tự nhiên, tránh chạy theo ham muốn cá nhân quá mức. Lấy ví dụ, một người thợ thủ công lành nghề nên tập trung phát triển kỹ năng trong một loại hình nghệ thuật cụ thể, thay vì phân tán nguồn lực vào quá nhiều lĩnh vực. Làm như vậy, họ sẽ có thể trau dồi chuyên môn ở mức độ cao nhất.

Tương tự, trong cuộc đời, bằng cách chủ đích giảm bớt lựa chọn, chúng ta sẽ có thể sống trong tỉnh thức và sáng suốt hơn, giảm bớt nguy cơ đưa ra những quyết định khiến ta phải hối hận về sau.

Đọc thêm: Shikata ga nai – Nghệ thuật buông bỏ của người Nhật

  1. Nhờ giúp đỡ & góp ý

Trong cuộc sống, không phải lúc nào ta cũng nhất thiết phải đưa ra lựa chọn một mình. Thực tế, việc nhờ giúp đỡ có thể góp phần cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình ra quyết định.

Chúng ta có thể, và nên, tâm sự với những người ta đủ tin tưởng để đưa ra lời khuyên, giúp ta tránh được những cạm bẫy điểm mù tiềm ẩn. Đó có thể là bất cứ ai: một người bạn thân lâu năm, một người thân giàu kinh nghiệm, một người quản lý hiểu rõ nguyện vọng nghề nghiệp của bạn, hoặc một mentor đã từng trải qua những ngã rẽ cuộc đời tương tự. Trong điều kiện lý tưởng, hãy chọn ai đó không chỉ gần gũi đủ để hiểu thế giới nội tâm của bạn, mà còn sẵn sàng đóng vai trò đối tác trách nhiệm giải trình (accountability partner) – một người có thể đưa ra lời khuyên, hỗ trợ, động viên và nhắc nhở để bạn luôn giữ vững cam kết với con đường đã chọn.

Thực tế đã cho thấy, ngay cả những chuyên gia giàu kinh nghiệm nhất cũng vẫn cần đến sự giúp đỡ từ bên thứ ba. Chẳng có gì là lạ lùng khi các chuyên gia coaching vẫn cần đến coach riêng của họ, hay các nhà tâm lý vẫn thi thoảng xin ý kiến từ các đồng nghiệp trong ngành.

Ba người hợp lại thành trí tuệ Bồ Tát.

Ngạn ngữ Nhật Bản

Mặt khác, chúng ta cũng cần lưu ý rằng, ý kiến góp ý từ bên ngoài là rất đáng giá, nhưng nó vẫn không thể thay thế được tiếng nói nội tâm bên trong.

Con người, dù thiện chí đến đâu, không phải lúc nào cũng có thể thấu hiểu những gì đang diễn ra bên trong ta – những mong muốn, nỗi sợ hãi, hệ giá trị cốt lõi, v.v… Đó là chưa kể đến việc chất lượng của lời khuyên cũng phụ thuộc khá nhiều vào chất lượng mối quan hệ. Ví dụ, một người bạn luôn ở bên cạnh, lắng nghe và chia sẻ nhìn chung sẽ có thể đưa ra lời khuyên ý nghĩa hơn nhiều so với một người thân, tuy cùng quan hệ huyết thống, nhưng lại xa cách về mặt tình cảm.

Trong những tình huống liên quan đến việc lựa chọn nghề nghiệp, một mentor hiểu rõ lĩnh vực chuyên môn và tính cách của bạn nhìn chung sẽ có thể đưa ra lời khuyên phù hợp hơn so với một người bạn thân không nắm rõ tình hình của ngành, ngay cả khi họ thực sự quan tâm và ủng hộ bạn trong các lĩnh vực khác của cuộc sống.

Hơn nữa, chúng ta cũng cần lưu ý đến những thành kiến ​​tiềm ẩn có thể ảnh hưởng đến góp ý của đối phương. Đây là điều cần đặc biệt chú ý khi xin lời khuyên từ thế hệ lớn tuổi hơn.

Tuy rằng người lớn thường có nhiều trải nghiệm sống quý giá, họ cũng có xu hướng sợ thay đổi và thích ổn định – điều này có thể ít nhiều tác động đến lời khuyên của họ, đặc biệt đối với những lựa chọn mới lạ, không theo quy chuẩn. Lấy ví dụ, sẽ rất khó để giải thích cho họ về xu hướng làm freelancer toàn thời gian, không có công việc full-time ổn định – hoặc về công việc trong các lĩnh vực mới nổi như digital.

Trong trường hợp bạn bị “mắc kẹt” và không thể dung hòa giữa tiếng nói bên ngoài và bên trong, lời khuyên là hãy chọn tin tưởng vào trực giác. Tuy mới nghe có vẻ khó tin, thực tế nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, việc dựa vào trực giác, đặc biệt khi phải đưa ra quyết định khó khăn, thường khiến con người đi đúng hướng nhiều hơn là sai hướng.

  1. Học hỏi cái mới, buông bỏ cái cũ

Cuộc sống hiếm khi diễn ra theo một đường thẳng. Thường thì, chúng ta sẽ phải liên tục trải qua những khúc quanh và “ngã rẽ” – đôi khi xuất hiện hoàn toàn bất ngờ, ngoài dự đoán của bản thân.

Nhìn lại quá khứ đã qua, tôi có thể thấy điều này hoàn toàn ứng nghiệm với chính mình. Trước đây, tôi chọn theo đuổi học về ngoại thương, một lựa chọn mà tôi – thành thật mà nói – cho rằng không hoàn toàn chân thực.

Và rồi, có lẽ do nhân duyên hay nguyên nhân gì đó, sau khi ra trường, tôi lại lựa chọn theo đuổi sự nghiệp trong mảng digital – một con đường hoàn toàn khác biệt so với ngành học đại học của tôi.

Và rồi gần đây, sau khi nhận thức rõ hơn về bản thân, tôi quyết định từ bỏ digital để theo đuổi một hướng đi khác – liên quan nhiều hơn đến tình trạng con người (ở thời điểm hiện tại, tôi cho rằng nó là tổng hòa giữa hai ngành tâm lý học và triết học).

Nếu người ngoài nhìn vào, rất có thể họ sẽ đánh giá tôi là đang “lang thang” vô định, đưa ra toàn những lựa chọn rời rạc, thiếu định hướng rõ ràng. Tuy nhiên, tôi tin tưởng chắc chắn rằng “Không phải kẻ lãng du nào cũng đều lạc lối”. (Not all who wander are lost)

Chính khi suy ngẫm về những khúc quanh sự nghiệp của mình, tôi cũng đồng thời nhận ra giá trị của từng giai đoạn. Quá trình học về ngoại thương, tuy không trực tiếp liên quan đến việc làm hiện tại, đã trang bị cho tôi các kỹ năng như tư duy phản biện, hiểu biết về thế giới toàn cầu hóa – cũng như những hạn chế của lối tư duy thuần túy tư bản, đặc biệt khi áp dụng vào những vấn đề nhân sinh.

Tuy rằng quãng thời gian làm việc trong lĩnh vực digital không thực sự khiến tôi thỏa mãn, song qua đó, tôi mới ý thức được tầm quan trọng của việc học hỏi liên tục, cũng như có cơ hội rèn luyện kỹ năng nghiên cứu, đánh giá tính xác thực của thông tin trên mạng và phát triển thói quen tư duy logic.

Nhìn lại, những trải nghiệm có vẻ rời rạc trên đây không phải là những ngã rẽ ngẫu nhiên – mà là những bài học thiết yếu, góp phần tạo nên con người tôi ngày hôm nay.

hướng đi trong đời

Sự lựa chọn trong cuộc sống

Thông điệp cốt lõi mà tôi muốn chia sẻ ở đây là: con người cần phải luôn linh hoạt và thích nghi khi đưa ra sự lựa chọn trong cuộc sống.

Cuộc sống không diễn ra theo một kịch bản cứng nhắc đã định trước – nhưng không ngừng thay đổi. Chúng ta phải sẵn sàng thay đổi hướng đi, thích nghi với tình hình thực tế mới, cũng như nắm bắt mọi cơ hội bất ngờ đến với mình.

Quan trọng là, chúng ta phải học cách thoát khỏi vòng kìm kẹp của sự hối tiếc và tự thương hại khi con đường của ta “rẽ hướng”, hoặc kế hoạch ban đầu bị “phá sản”. Thay vì quá ám ảnh mục tiêu và xem những “lựa chọn sai lầm” trong quá khứ là thất bại, chúng ta có thể CHỌN xem đó như cơ hội để học hỏi. Rằng ngay cả những bước lùi lớn nhất cũng có thể được chuyển hóa thành chất xúc tác cho thành công trong tương lai.

Nếu con đường sự nghiệp bạn chọn giờ đi vào bế tắc, tại sao không bắt đầu học lại từ đầu, tận dụng các kiến thức/ kỹ năng đã tích lũy trên hành trình cũ, hoặc thậm chí là tự khởi nghiệp?

Nếu một mối quan hệ không diễn ra như mong đợi, hãy cứ đơn giản học tập từ nó, dành thời gian để chữa lành và sẵn sàng mở lòng với những kết nối mới.

Đừng sợ “sai”. Sai lầm không phải thất bại – nhưng là cơ hội để phát triển và rèn luyện năng lực bền bỉ (resilience), một phẩm chất quý giá trong thế giới biến động ngày nay.

Người bi quan phàn nàn về cơn gió, người lạc quan mong chờ gió đổi chiều, người thực tế điều chỉnh cánh buồm.

William Arthur Ward

Một khía cạnh quan trọng khác của học tập là sẵn sàng từ bỏ những kiến thức/ kinh nghiệm cũ không còn giúp ích ta nữa (còn được biết đến với tên gọi “unlearn“). Như TS. Marshall Goldsmith đã tuyên bố, “thành công hôm nay chưa chắc thành đạt ngày mai“.

Những kỹ năng, niềm tin và cách tiếp cận từng giúp ta thành công trong một giai đoạn của cuộc sống có thể sẽ trở nên vô ích khi chuyển sang giai đoạn khác. Một mặt ta cần chủ động học hỏi những điều mới; mặt khác, ta cũng phải sẵn sàng từ bỏ những quan điểm lỗi thời, những thói quen xấu kinh niên, cũng như việc bám chấp vào một “bản sắc” đã qua.

Bạn đã từng bao giờ nghe nói về câu chuyện ngụ ngôn Chiếc bè của Đức Phật chưa? Chuyện kể về một người đóng một chiếc bè để băng qua sông. Khi đã sang đến bờ bên kia, liệu anh ta có tiếp tục mang chiếc bè theo không?

Chắc chắn là không. Chiếc bè đã hoàn thành mục đích của nó; giờ đây, anh ta phải buông bỏ nó và bước tiếp, không mang theo những thứ không cần thiết nữa.

Tương tự như vậy, trong cuộc sống, chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ các công cụ, phương pháp hoặc thậm chí là danh tính cũ từng giúp đỡ ta trước đây – nhưng hiện giờ lại kìm hãm ta phát triển hơn nữa.

Hành động buông bỏ, sẵn sàng quên đi những điều đã học là rất cần thiết để không ngừng tiến bộ.

Để kết thúc, chúng ta hãy cùng suy ngẫm về câu chuyện “Những viên sỏi kỳ diệu” nhé.

Một đêm nọ, khi một nhóm những người du mục đang chuẩn bị đi ngủ, thình lình họ nhìn thấy một vầng sáng lớn xuất hiện. Ngay lập tức, họ nhận ra rằng họ đang đứng trước mặt một vị thiên sứ. Trong lòng vô cùng hăm hở, họ chờ đợi sẽ được truyền đạt một thông điệp thiêng liêng và vô cùng quan trọng mà họ tin rằng chỉ dành riêng cho họ.

Cuối cùng giọng nói uy nghiêm của vị thiên sứ vang lên:

“Hãy nhặt những hòn đá sỏi, càng nhiều càng tốt, và cất chúng vào trong túi đeo trên yên ngựa của các ngươi. Vào sáng mai các ngươi sẽ phải khởi hành đi suốt ngày. Tối mai sẽ đem đến cho các ngươi sự vui mừng và sự buồn bã.”

Sáng hôm sau, sau khi đã khởi hành, họ bắt đầu chia sẻ với nhau nỗi thất vọng và bực tức. Họ đã trông chờ vị thiên sứ sẽ truyền đạt một chân lý vĩ đại giúp họ tìm thấy sự giàu có, sức khỏe và ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng thay vào đó, họ chỉ nhận được một công việc tầm thường chẳng có chút ý nghĩa nào. Tuy nhiên hình ảnh về vầng hào quang của vị thiên sứ vẫn còn in đậm trong tâm trí những người du mục, khiến họ làm theo đúng lời dặn. Mỗi người lượm một vài viên sỏi và cất chúng vào trong yên ngựa trong khi miệng vẫn không ngớt đưa ra những lời ca thán.

Họ đi ròng rã một ngày đường, và khi đêm đến, họ dừng lại và hạ trại. Họ thò tay vào trong túi yên ngựa của mình và khám phá ra rằng, mỗi một hòn sỏi họ nhặt được đã biến thành một viên kim cương. Họ cảm thấy vui mừng khôn xiết vì có được những viên kim cương ấy, tuy nhiên lòng không khỏi buồn bã vì đã không nhặt thêm nhiều hòn sỏi hơn.

Câu chuyện ngụ ngôn trên đây là một minh họa tuyệt đẹp về giá trị của những lựa chọn/ hành động có vẻ tầm thường trên hành trình cuộc đời. Chúng ta không bao giờ có thể biết những “viên sỏi” – những trải nghiệm, lựa chọn hoặc nỗ lực nào – cuối cùng sẽ biến thành “kim cương” – những bài học giá trị, cơ hội bất ngờ hoặc kết quả như mong muốn. Do đó, quyết định khôn ngoan nhất là sống trọn khoảnh khắc hiện tại, đón nhận từng trải nghiệm như một cơ hội học tập, và luôn tin tưởng rằng, ngay cả những lựa chọn nhỏ bé nhất cũng có thể góp phần tạo nên một cuộc sống phong phú, ý nghĩa và bổ ích hơn.

Cũng giống như những người du mục không thể thấy trước được những viên kim cương, chúng ta cũng cần có niềm tin rằng, chính khi liên tục học hỏi và thích nghi – dù có đang “lang thang” trong vô định, đó là chúng ta đang thu nhặt những “viên sỏi” mà theo thời gian, sẽ dần bộc lộ giá trị tiềm ẩn của nó.

Nỗ lực, không phải mục tiêu cuối cùng, mới là điều quan trọng.

Đừng say mê con người hiện tại – mà hãy hướng đến con người tương lai của bạn.

Miguel de Cervantes

giữa muôn vàn sự lựa chọn

Trích dẫn từ bài đăng Reddit đã đề cập phía trên:

Tôi cho rằng một phần của vấn đề là do chúng ta quá chú ý đến đích đến. Một ngày nào đó chúng ta sẽ thức dậy và nói rằng, vâng, tôi đã “chiến thắng” cuộc sống. Phim ảnh, truyền hình và văn hóa phương Tây thường hay cổ súy lối suy nghĩ thiển cận như vậy. Cũng như rất nhiều lần chúng ta hay nói về thứ gọi là “hạnh phúc mãi mãi”. Cuộc sống hiếm khi diễn ra theo cách ta suy nghĩ. Khủng hoảng tuổi trung niên xảy ra vì một lý do; thay vì cảm thấy đã hoàn thành mục tiêu như mong muốn, thì bạn có cảm giác gì đó rất kỳ lạ – như thể mọi thứ đều ổn, nhưng bạn lại không cảm thấy ổn hay thỏa mãn… hoặc “đột nhiên”, mọi thứ hóa ra thật tồi tệ, và rằng đã đến lúc phải thay đổi.

Người ta thường nói rằng, trước 40 tuổi là khoảng thời gian theo đuổi tham vọng; sau đó là để phục vụ cộng đồng. 40 tuổi là thời điểm chúng ta nhìn chung đã có được nhận thức tương đối về bản thân, những gì ta cần, thích và mong muốn. Nếu ai đó được may mắn giống như bạn, thì đây là lúc sử dụng kinh nghiệm để phục vụ thứ gì đó khiến thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Có thể là xây một ngôi trường, hoặc đơn giản là vẽ một bức tranh. Vấn đề là, ít nhất bạn cũng đang cố gắng phát triển những gì tiếp theo. Dựa trên chia sẻ của bạn, tôi cho rằng bạn nên xem xét lý do tại sao bạn lại dùng những từ như “hèn nhát” và “thảm hại” để nói về mình như vậy.

Điều đáng buồn là chúng ta ​​chỉ có một cơ hội để thấu hiểu cuộc sống – giữ hàng tỷ những người khác cũng làm điều tương tự, trong một cơ thể bắt đầu suy tàn ngay lúc bạn mới bắt đầu “khởi động”. Bạn chỉ có một cơ hội để làm cho mọi thứ “đúng” vào thời điểm bạn 25 tuổi – và được sống trong giấc mơ của mình suốt quãng đời còn lại.

Tôi từng làm việc trong ngành xuất bản và thấy rằng, thật tệ khi chúng ta thiết kế quá nhiều cơ hội và chương trình dành riêng cho các nhà văn ở độ tuổi cuối 20 trở xuống; trong khi chỉ những nhà văn lớn tuổi hơn nhiều mới có điều gì đó thực sự sâu sắc và xúc động để chia sẻ với độc giả. Không phải vì thiếu tài năng, mà chỉ là các nhà văn trẻ chưa có đủ thời gian để sống, chứng kiến, cảm nhận và phát triển. Cũng giống như nhiều lĩnh vực khác trong xã hội tư bản này, một hệ thống muốn đưa ra những công thức và phương pháp để tất cả chúng ta đều có thể hòa nhập. Và nếu ta không làm được như vậy, nó sẽ rao bán thứ gì đó khiến ta cảm thấy tốt hơn về bản thân.

Tôi đã ngoài 40 và đã đi du lịch rất nhiều, đã từng kết hôn, ly hôn, đã trải qua nhiều chuyện điên rồ – cả do lỗi của tôi lẫn do số mệnh – đã làm nhiều điều mà tôi muốn làm cho đến nay, chưa bao giờ sa vào tệ nạn, đã từng ngã bệnh, từng sống trong sung túc và được bạn bè vây quanh. Giờ thì, tôi đang trong tình trạng vô gia cư, thất nghiệp, mất bạn bè vì những hậu quả sau đại dịch, và đang cố gắng tìm cách chăm sóc mẹ già đau yếu. Tôi đang ở trong tình thế tệ hại nhất mà tôi tin rằng có thể xảy ra cho đến bây giờ. Tôi tin rằng mọi thứ sẽ thay đổi, xét từ nỗ lực của bản thân, nhưng tôi cũng bắt đầu chấp nhận rằng tôi có thể đã sai – và đó là điều hết sức bình thường.

Tất cả những gì chúng ta có là ngay bây giờ. Có thể là thêm vài giờ nữa. Bạn có thể chọn đúng, sai, hoặc chẳng đúng cũng chẳng sai… đó là vấn đề quan niệm cá nhân. Dù bạn làm gì, tôi hy vọng bạn sẽ tìm thấy sự bình yên và hạnh phúc đích thực của riêng mình. Bạn là người duy nhất có thể trả lời câu hỏi của chính mình 🙂

Nghe có vẻ như bây giờ, bạn đã hiểu khá rõ về bản thân. Chúa biết rằng chúng ta phải rèn luyện rất nhiều thứ trong tâm hồn. Hãy quan sát cuộc đời sẽ đưa bạn đến đâu. Rất có thể, bạn sẽ cập bến tại một nơi tuyệt vời nào đó đấy.

  1. Thực hành đánh giá kế hoạch cuộc sống

Đối với những ai muốn tìm kiếm một phương pháp tiếp cận có cấu trúc và chủ động hơn, tôi khuyên bạn nên thử nghiệm kỹ thuật Đánh giá Kế hoạch Cuộc sống (Life Plan Review – LPR) của TS. Marshall Goldsmith. Kỹ thuật này, được trình bày chi tiết trong tác phẩm Sống đời mãn nguyện (tiếng Anh: The Earned Life), mang lại một khuôn khổ đơn giản nhưng hiệu quả để tự giám sát và điều chỉnh lộ trình cuộc đời.

Phương pháp LPR đặt giả định rằng bạn đã, thông qua quá trình tự phản ánh, xác định được con người mà bạn muốn trở thành. Không giống như nhiều kỹ thuật self-help khác – vốn chỉ tập trung vào những tuyên bố động lực lớn lao hoặc thói quen cứng nhắc, LPR không hướng đến việc đạt tới sự hoàn hảo – cốt lỗi của nó là đánh giá mức độ CỐ GẮNG của bạn.

Ý tưởng chủ đạo ở đây là, trong khi kết quả bên ngoài đôi khi có thể nằm ngoài tầm kiểm soát trực tiếp của cá nhân, thì nỗ lực của bản thân luôn nằm trong khả năng của ta. Không ngừng nỗ lực hướng tới các mục tiêu có ý nghĩa là chìa khóa để sống một cuộc sống xứng đáng.

Phương pháp LPR bao gồm 4 bước chính như sau:

  • Đánh giá hàng tuần

Mỗi tuần, hãy suy ngẫm về nỗ lực của bạn bằng cách khởi đầu với câu hỏi: “Liệu tôi đã cố gắng hết sức để…”

1. Đặt mục tiêu rõ ràng?

2. Hướng tới mục tiêu đã đề ra?

3. Trở nên vui vẻ & hạnh phúc?

4. Tìm kiếm ý nghĩa trong mọi việc mình làm?

5. Nuôi dưỡng các mối quan hệ tích cực?

6. Sống trọn khoảnh khắc hiện tại?

Đối với mỗi câu hỏi, hãy cho điểm từ 1 đến 10 để phản ánh nỗ lực của bạn, không chỉ dừng lại ở kết quả đã đạt được (ví dụ: chấm điểm dựa trên việc bạn đã cố gắng tiến bộ trong một dự án công việc, bất kể có nhận được sự chấp thuận nào từ bên ngoài trong tuần đó hay không).

  • Tự theo dõi hàng ngày

Giữa các lần đánh giá hàng tuần, hãy theo dõi nỗ lực của bạn dựa trên sáu câu hỏi như trên. Việc tự giám sát là cơ hội để nhận diện các lĩnh vực mà bạn đang gặp khó khăn – để qua đó kịp thời điều chỉnh và nuôi dưỡng nhận thức về bản thân trong suốt tuần.

  • Kiểm điểm kế hoạch cuộc sống tổng thể

Hãy sử dụng bản đánh giá hàng tuần để xem xét định hướng cuộc sống tổng thể của bạn – liệu bạn có đang thực sự nỗ lực hướng tới nó hay không. Sau đó, hãy điều chỉnh lại nỗ lực của bạn – hoặc quyết định xem mục tiêu đề ra có còn phù hợp với nguyện vọng mới của bạn hay không.

Ví dụ, nếu bạn liên tục đạt điểm thấp ở phần “hướng tới mục tiêu”, thì đã đến lúc xem xét lại xem mục tiêu của bạn có còn đủ hấp dẫn hay không – hay là bạn có cần chia nó thành các bước nhỏ, dễ thực hiện hơn không.

  • Đừng hành động một mình

Lời khuyên là bạn hãy thực hành LPR trong khuôn khổ một cộng đồng hỗ trợ, với những cá nhân cùng chí hướng. Việc chia sẻ đánh giá hàng tuần sẽ góp phần khuyến khích tinh thần trách nhiệm chung, tạo động lực khích lệ cũng như cơ hội học tập lẫn nhau.

sự lựa chọn trong cuộc sống

  1. Tập chết

Thời gian của bạn là có hạn; đừng lãng phí nó để sống cuộc đời của người khác.

Steve Jobs

Tất cả chúng ta rồi sẽ không còn nữa. Nhận thức về bản tính phàm trần phải diệt vong của mình (“Memento Mori” – Hãy nhớ rằng ngươi sẽ phải chết!) không nên khiến ta rơi vào trạng thái u ám hay buồn chán. Đúng hơn, nếu thực sự giác ngộ chân lý đó, nó sẽ trở thành nguồn sức mạnh để cá nhân sáng suốt hơn mỗi khi đối mặt với sự lựa chọn trong cuộc sống.

Trong nhiều thế kỷ, thực hành chiêm nghiệm về cái chết luôn được cổ võ trong các trường phái triết học như Khắc kỷ, cũng như nhiều truyền thống tâm linh khác. Nó đóng vai trò như liều thuốc giải mạnh mẽ đối với chứng bệnh “lề mề” kinh niên, lãng phí thời gian cho những hoạt động vô bổ.

Khi ý thức được sự hữu hạn của kiếp người, chúng ta sẽ ít nhiều không còn cảm thấy bị hấp dẫn bởi mục tiêu tích lũy của cải vật chất, theo đuổi sự công nhận của xã hội, hay lo lắng thái qua về những “trend” chóng qua nữa. Những mối quan tâm trần tục này, xét cho cùng, là vô thường và không giúp ích gì cho kế hoạch cuộc đời cả.

Suy ngẫm hàng ngày về cái chết sẽ khuyến khích mỗi người chuyển hướng chú ý từ những điều hời hợt sang những gì thực sự quan tọng. Bằng cách “tập chết” mỗi ngày, chúng ta sẽ có được động lực để nỗ lực hiện thực hóa tầm nhìn, ưu tiên những gì thực sự có ý nghĩa – các mối quan hệ, đóng góp cho xã hội, những phẩm chất như lòng dũng cảm và trắc ẩn – và tìm cách vượt lên giới hạn của kiếp phàm nhân này (dù là từ góc độ tâm linh hay thế tục).

Phương pháp “tập chết”:

  • Suy ngẫm: Hãy dành một vài phút mỗi ngày, có thể là trong lúc thiền hoặc viết nhật ký, để suy nghĩ một cách có ý thức về cái chết của bạn. Hãy tự hỏi: “Nếu sẽ phải chết trong nay mai, tôi sẽ ưu tiên sử dụng thời gian của mình như thế nào? Điều gì thực sự quan trọng với tôi?”
  • Lên kế hoạch cuộc đời: Mỗi đưa ra quyết định quan trọng, hãy cố gắng nhìn thật xa để hình dung các viễn cảnh có thể xảy ra – cũng như đích đến của từng con đường. Bằng cách này, bạn sẽ có thể nhận thức rõ hơn về các ưu tiên, cũng như phân biệt giữa mong muốn thoáng qua và các giá trị dài hạn.
  • Tưởng tượng ra đám tang của chính bạn: Đây là một bài tập không mấy dễ chịu, song rất phù hợp để hình dung ra cuộc sống mà bạn thực sự mong muốn, cũng như di sản bạn muốn để lại. Bạn sẽ muốn mọi người nói gì về bạn và những lựa chọn của bạn?

Nếu đây là tuần cuối cùng của cuộc đời, bạn sẽ trân trọng điều gì nhất? Bạn sẽ sống như thế nào? Bạn sẽ yêu thương như thế nào? Hôm nay bạn sẽ nói ra những sự thật gì?

Tony Robbins

bí quyết đưa ra sự lựa chọn đúng đắn trong cuộc sống

Bí quyết đưa ra sự lựa chọn đúng đắn trong cuộc sống

Đọc thêm: Vision Board là gì? Bật mí 6 bước lập bảng tầm nhìn chi tiết

Vượt qua cảm giác hối tiếc trong mọi lựa chọn

Người ta có thể lựa chọn làm cái này hoặc cái kia. Lời khuyên chân thành của tôi dành cho bạn là: làm hay không làm, bạn sẽ đều hối hận.

Søren Kierkegaard

Ngay cả với những quyết định được cân nhắc kỹ lưỡng nhất, cảm giác hối tiếc vẫn là điều không thể tránh khỏi – dù bạn chọn đi theo con đường nào.

Vì sao lại như vậy?

Rất nhiều lần, sự hối tiếc xuất phát từ thực tế đơn giản rằng, việc chọn một con đường đồng nghĩa với việc phải từ bỏ những con đường khác – từ bỏ những cơ hội có thể xuất hiện khi ta đi theo những hướng đi đó. Chúng ta có thể hối tiếc về những con đường sự nghiệp không theo đuổi, những mối quan hệ không được nuôi dưỡng, hoặc những cơ hội đã qua. “Nếu như/ giá như … thì sao?”

Bên cạnh đó, cũng không ít lần, cảm giác hối tiếc là do áp lực bên ngoài mà ra. Như Ralph Waldo Emerson đã nhận định:

Bất kể bạn quyết định theo hướng nào, sẽ luôn có người nói rằng bạn đã sai lầm. Luôn có những khó khăn nảy sinh khiến bạn tin rằng những người chỉ trích bạn là đúng. Bạn sẽ cần phải thực sự dũng cảm để vạch ra một lộ trình hành động và theo đuổi nó đến cùng.

Những lời phê bình của người ngoài, ngay cả khi được thực hiện với ý tốt, cũng vẫn gieo rắc hạt giống của sự nghi ngờ, khiến ta băn khoăn về lựa chọn của mình, đặc biệt nếu như có khó khăn xảy ra.

lựa chọn đúng đắn vs sai lầm

Sự lựa chọn trong cuộc sống

Thế nhưng, chúng ta cần lưu ý rằng, không ai có thể đưa ra lựa chọn hoàn hảo mọi lúc mọi nơi.

Như đã đề cập, cuộc sống là một quá trình học hỏi và điều chỉnh liên tục. Mỗi người cần học cách đối diện với sự hối tiếc trong tinh thần xây dựng, tha thứ cho bản thân cũng như người khác về sai lầm đã qua, đồng thời rút ra bài học từ sai lầm đó – để có thể luôn mạnh mẽ và sáng suốt trong mọi lựa chọn của cuộc sống.

Nếu một lựa chọn không dẫn đến kết quả như mong muốn, hoặc nếu chúng ta nhận thấy mình đang đi trên con đường mà ta không còn muốn theo đuổi nữa, thì đơn giản, hãy thay đổi hướng đi!

Điều gì xảy ra thì đã xảy ra. Chấp nhận quá khứ không phải là cam chịu, mà là nền tảng cần thiết để tiến về phía trước.

Khi một cánh cửa đóng lại, một cánh cửa khác sẽ mở ra; thế nhưng, đáng tiếc là chúng ta thường chỉ chú tâm vào cánh cửa đã đóng mà không thấy cánh cửa mới được mở ra cho ta.

Helen Keller

Ngay cả khi phải đối mặt với thất bại lớn hoặc hậu quả khôn lường của quyết định trong quá khứ, chúng ta vẫn không hề đánh mất khả năng lựa chọn thái độ của mình.

Dù hoàn cảnh hiện tại có khó khăn hay bi đát đến đâu, thì hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn, về sự phát triển và một cuộc sống ý nghĩa vẫn còn đó.

con đường trong đời

Chúng ta hãy cùng xem lại câu chuyện về Anakin Skywalker nhé. Như bạn hẳn đã biết, Anakin đã đưa ra một loạt các quyết định sai lầm và gây ra biết bao đau khổ. Thế nhưng, ngay trong khoảnh khắc cuối cùng, ông đã chọn hy sinh bản thân để cứu người con trai Luke.

Hành động “cải tà quy chánh” của Anakin, ngay cả khi bị ám ảnh bởi nỗi kinh hoàng trong quá khứ, gửi đi một thông điệp đầy mạnh mẽ về niềm hy vọng. Rằng ngay cả những ai từng trải qua quá khứ khủng khiếp nhất – chính họ vẫn có thể quay về và lựa chọn con đường mới cho mình.

Ngay cả khi chìm ngập trong nỗi hối tiếc, vẫn luôn còn đó cơ hội để ta thay đổi và lựa chọn một con đường tốt đẹp hơn.

Con người có thể bị tước đoạt tất cả mọi thứ, ngoại trừ một điều: ý chí tự do để lựa chọn thái độ sống trong mọi hoàn cảnh cũng như hướng đi cho riêng mình.

Viktor E. Frankl

Một khía cạnh quan trọng để vượt qua cảm giác hối tiếc là nuôi dưỡng nhận thức về hiện tại; điều này có thể đạt được thông qua kỹ thuật Every Breath Paradigm (tạm dịch: Nguyên lý từng hơi thở) của TS. Marshall Goldsmith. Cụ thể, chúng ta được mời gọi suy ngẫm về sự vô thường của cuộc sống – và nhận ra rằng với mỗi lần hít vào và thở ra, cuộc sống của ta cũng đồng thời mở ra một trang mới.

Ý tưởng chủ đạo ở đây là, mỗi hơi thở là duy nhất, một trải nghiệm không hề lặp lại lần thứ hai. Việc hoàn toàn tỉnh thức trong từng hơi thở cho phép chúng ta buông bỏ ràng buộc với quá khứ cũng như lo lắng về tương lai. Chính từ đây, ta sẽ được trang bị tốt hơn để đưa ra những lựa chọn có chủ đích, cũng như học cách tận hưởng vẻ đẹp phong phú của đời sống này.

Với mỗi hơi thở, tôi trở thành một con người mới.

Thích Ca

Quy tắc lựa chọn: “Tôn người lên, hạ mình xuống”

Đây là nguyên tắc ra quyết định mà tôi xin phép được thảo luận trong một phần riêng biệt. Tuy có vẻ hơi trừu tượng và ít nhiều “triết lý” đối với một số bạn đọc, tôi tin rằng đây chính là quy tắc tối thượng khi đưa ra sự lựa chọn trong cuộc sống. Cụ thể là, hãy luôn ưu tiên những quyết định mang lại lợi ích cho tha nhân, đồng thời giảm bớt tầm ảnh hưởng của cái tôi cá nhân.

Thật dễ dàng để cho cái tôi – bao gồm những ham muốn, nỗi sợ hãi, sự tự tôn quá mức – trở thành động cơ chính điều khiển hành vi của mình. Tuy nhiên, lịch sử và kinh nghiệm thực tế đã cho thấy, những quyết định chỉ hướng đến lợi ích cá nhân thường chỉ dẫn đến sự hối tiếc và một cuộc sống kém viên mãn.

Nó cũng giống như việc theo đuổi danh vọng phù du, không ngừng tìm kiếm của cải vật chất, hoặc tham vọng cá nhân – với cái giá phải trả là những mối quan hệ ý nghĩa. Mặc dù những con đường này có thể mang lại sự thỏa mãn tạm thời, nhưng cuối cùng, những gì còn lại thường chỉ là một khoảng trống trong tâm hồn.

Nói đến đây, tôi không khỏi hồi tưởng lại những lời của Giáo sư Dumbledore ở cuối tiểu thuyết Harry Potter & Chiếc cốc lửa – ngay sau khi Chúa tể Hắc ám vừa được hồi sinh.

Nếu đến lúc các con phải lựa chọn giữa điều đúng đắn và điều dễ dàng, hãy nhớ điều gì đã xảy ra với một cậu bé tốt bụng, tử tế và dũng cảm, vì cậu đi lạc vào con đường của Chúa tể Voldemort. Hãy nhớ Cedric Diggory.

(Thông tin bên lề: Cedric Diggory là một người bạn học, một chàng trai trẻ tốt bụng, tài năng và được yêu mến, người đã cùng Harry Potter tham gia thi đấu Tam pháp thuật. Trong một khoảnh khắc cao trào, Cedric, sau khi giành chiến thắng cách xứng đáng, đã bị sát hại bởi tay chân của Chúa tể Hắc ám Voldemort)

Lời căn dặn trên đây được Dumbledore nói ra vào một thời điểm đầy “đen tối”, khi mọi người có xu hướng lựa chọn điều dễ dàng – nhắm mắt làm ngơ trước bất công, ưu tiên sự thoải mái cá nhân hơn hành động đạo đức. Ngược lại, chúng ta cần phải lựa chọn “điều đúng đắn”, ngay cả khi có khó khăn hay gây nguy hiểm cho bản thân đến đâu. Lựa chọn “điều dễ dàng”, tuy thỏa mãn lợi ích cá nhân ngay lập tức, sẽ dẫn ta đến với “cái chết” – sự suy đồi về phương diện tinh thần và đạo đức.

Bài học rút ra từ câu chuyện này là, chúng ta phải cố gắng nhìn xa hơn lợi ích trước mắt, để cân nhắc đến tác động về mặt đạo đức và nhân văn trong từng lựa chọn của mình.

Thế nhưng, đến đây lại nảy sinh một câu hỏi hóc búa: Điều gì là “đúng đắn”?

Tôi tin rằng để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần xem xét lại một nguyên tắc đạo đức cơ bản – được biết đến với tên gọi Nguyên tắc vàng (Golden Rule): “Đừng làm những gì bạn không muốn người khác làm với mình”.

Nguyên tắc trên đây nhấn mạnh tầm quan trọng của tính có đi có lại và sự đồng cảm – nền tảng của mọi hành vi đạo đức. Áp dụng vào việc ra quyết định, nó đòi hỏi ta phải tự vấn bản thân: “Liệu tôi có muốn được đối xử theo cách này không? Liệu tôi có muốn sống trong một thế giới mà mọi người đều đưa ra lựa chọn như thế này không?”

Những câu hỏi đơn giản như vậy cũng đủ để làm sáng tỏ các chiều kích đạo đức của ngay cả những quyết định có vẻ mang tính cá nhân. Bạn có mong muốn người khác tử tế với bạn không? Vậy thì hãy chọn cách tử tế trước.

Bạn có mong muốn hạnh phúc không? Vậy hãy cố gắng mang lại hạnh phúc cho người khác.

Bạn có mong muốn được hỗ trợ và thấu hiểu không? Hãy hết lòng hỗ trợ và thấu hiểu những người xung quanh bạn.

Bạn có muốn thấy người mẹ hay hoài nghi của mình có cái nhìn tích cực hơn không? Hãy nêu gương qua hành động và lối sống của chính bạn – trở thành sự thay đổi mà bạn mong muốn nhìn thấy!

Mỗi khi đưa ra lựa chọn lớn, đặc biệt là những quyết định về đạo đức hoặc có tiềm năng ảnh hưởng sâu rộng đến cộng đồng, chúng ta nên cố gắng suy nghĩ một cách “tâm linh” – vượt lên cái tôi hạn hẹp và quan tâm đến người khác. Không nhất thiết bạn phải thực hành theo học thuyết tôn giáo cụ thể nào; điều quan trọng là biết nhìn cuộc sống với tâm từ bi, không bị chi phối bởi bản ngã ích kỷ.

Bản ngã, về bản chất, là cái gì đó rất dễ bị tổn thương; nó đòi hỏi ta phải liên tục tìm kiếm sự công nhận từ bên ngoài. Nếu chỉ đưa ra các lựa chọn nhằm mục đích tôn vinh bản thân, chúng ta sẽ tự đặt mình vào vòng xoáy vô tận của thất vọng và đau khổ.

Thực tế đã cho thấy, cuộc sống luôn có cách để “hạ ta xuống”, đưa ta trở về thực tại mỗi khi ta để cho bản ngã chi phối quyết định của mình.

Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này.” Bấy giờ, anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho.” Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn.

Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.

Luke 14:8-11

Bước đầu tiên để học cách suy nghĩ cho người khác, đó là ý thức được bản tính tốt đẹp vốn có của nhân loại. Như Mạnh Tử đã nói: “Nhân chi sơ, tính bản thiện.” (人之初,性本善)

Tin tưởng vào bản chất tốt đẹp của con người không phải là phủ nhận cách ngây thơ khiếm khuyết của tha nhân – cốt lõi của nó là thay đổi quan điểm và thái độ sống. Nói cách khác, đó là khi ta nhìn cuộc sống với niềm hy vọng, sự khiêm nhường và đồng cảm – thay vì với thái độ hoài nghi, hận thù, tự cho mình là đúng.

Thoạt nhìn có vẻ là một suy nghĩ có phần “lý tưởng”, song việc CHỌN tin vào tiềm năng hướng thiện của con người sẽ biến cuộc sống từ cái gì đó cần “sửa chữa” hay kiểm soát thành một trải nghiệm đáng trân trọng và vun đắp.

Khi bạn chuyển hướng sự tập trung từ cạnh tranh sang đóng góp, cuộc sống sẽ trở thành một buổi lễ kỷ niệm. Đừng bao giờ cố gắng đánh bại, chỉ cần giành được trái tim của con người.

Thích Ca

sự lựa chọn trong cuộc sống

Sự lựa chọn trong cuộc sống

Thế nhưng một lần nữa, chúng ta lại đi đến một câu hỏi khác: làm sao có thể suy nghĩ cho người khác mà không trở nên kiêu ngạo, tự cho mình là đúng, hay gánh vác những trách nhiệm không phải của mình?

Rất đơn giản. Chúng ta chỉ cần học cách “phân chia nhiệm vụ” .

Ngày trước, Alfred Adler từng đề xuất lý thuyết tâm lý cá nhân. Trong đó, ông nhấn mạnh rằng một mặt, con người nên cố gắng hành động với lòng trắc ẩn và đóng góp vào hạnh phúc của người khác; mặt khác, họ cũng phải tôn trọng quyền tự chủ và trách nhiệm cá nhân. Nói cách khác, chúng ta cần tập trung hoàn thành trách nhiệm của riêng mình cách tốt nhất có thể, mà không can thiệp không cần thiết vào trách nhiệm của người khác.

Ví dụ, hành vi hỗ trợ và động viên một người bạn đang phân vân về con đường sự nghiệp là hành động tử tế và đáng khen ngợi. Tuy nhiên, việc tìm cách thuyết phục họ đi theo một hướng đi nhất định thì lại là “xen” vào bổn phận của họ.

Tương tự, việc ủng hộ công lý xã hội là một nỗ lực đáng trân trọng; thế nhưng, hành động cố gắng ép buộc người khác chấp nhận thế giới quan của bạn, hoặc tìm cách thay đổi suy nghĩ của mọi người thì hoàn toàn không thực tế – nếu không muốn nói là biểu hiện của sự ngạo mạn.

Chìa khóa ở đây là hành động với lòng trắc ẩn và mong muốn làm phong phú thêm cuộc sống của người khác, tôn trọng hành trình cá nhân của họ, và tập trung chủ yếu vào bổn phận của mình.

thế giới không trắng cũng không đen

Cuộc sống không chỉ có hai màu đen và trắng

Việc đưa ra lựa chọn, đặc biệt là những lựa chọn về mặt đạo đức, nhìn chung không đơn giản chút nào. Đôi khi, con đường “đúng” không phải lúc nào cũng rõ ràng, và đây chính là lúc chúng ta phải suy ngẫm nghiệm túc về cái gọi là “đạo đức của sự mơ hồ”.

Đôi khi, sự thật không đủ tốt. Đôi khi mọi người cần nhiều hơn thế. Đôi khi mọi người xứng đáng được đền đáp vì niềm tin của họ.

Batman – Kỵ sĩ bóng đêm

(Trong câu chuyện trên đây, Batman, khi đối mặt với một tình huống phức tạp về mặt đạo đức, đã quyết định nhận trách nhiệm cho tội ác của công tố viên Harvey Dent để bảo vệ hy vọng và niềm tin vào công lý của người dân thành phố Gotham. Thay vì tôn trọng “sự thật” là vạch trần sự sa ngã của Dent, Batman đã CHỌN hy sinh danh tiếng của chính mình vì lợi ích lớn lao hơn – duy trì niềm tin của công chúng và ngăn chặn nguy cơ xã hội sụp đổ.)

Từ câu chuyện của Batman, chúng ta có thể thấy trong một số tình huống đặc biệt nhạy cảm, “đúng đắn” không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với việc tuân thủ nghiêm ngặt sự thật hoặc các quy tắc đạo đức chung. Đôi khi, nó đòi hỏi ta phải ưu tiên lòng tốt, hy vọng và phúc lợi chung của cộng đồng, dù rằng phải đưa ra những lựa chọn đầy khó khăn.

Bản thân tôi cũng thường phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan này. Nhiều lần, tôi chọn không chia sẻ một số thông tin tiêu cực với mẹ tôi – vốn là người hay lo lắng và có cái nhìn khá “thị phi” với xã hội. Mục đích sâu xa của tôi không phải là lừa dối bà, nhưng ngược lại, nó đến từ mong muốn giúp mẹ tôi luôn vui vẻ và suy nghĩ tích cực về mọi người.

Trong những tình huống này, tôi tin rằng chúng ta cần ưu tiên sự “tử tế” (kind) hơn là “đúng đắn” (right).

Lẽ đương nhiên, không dễ để lựa chọn như vậy. Vào những lúc đó, tôi tin rằng tất cả chúng ta cần nhắc nhở bản thân về chân lý sau đây:

Thời khắc đen tối nhất luôn là trước rạng đông.”

Hãy luôn vững tin vào tiềm năng hướng thiện của con người, vào sức mạnh của tinh thần nhân loại. Và tin rằng ngay cả khi đối mặt với bất định và bóng tối, cuộc sống, dưới muôn hình vạn trạng của nó, vẫn luôn tìm ra cách hướng tới ánh sáng, sự phát triển và kết nối.

Dù bạn tin vào sự tồn tại của một thế lực thần thánh, nguyên lý duyên khởi, tác nhân con người, hay chỉ đơn giản là quỹ đạo vốn có của sự sống, thì hãy luôn xác tín rằng: bằng cách lựa chọn những việc làm xuất phát từ lòng trắc ẩn, sự khiêm nhường và mong muốn làm giàu thêm cuộc sống của người khác, đó là bạn đang góp phần vào “bình minh” đang đến.

Đêm luôn tối nhất trước lúc bình minh. Nhưng hãy luôn mở to mắt; nếu tránh né bóng tối, bạn sẽ trở nên mù lòa khi tia nắng của ngày mới xuất hiện… Hãy mở mắt ra, bất kể đêm tối phía trước có tối đến mức nào.

Hideaki Sorachi

sự lựa chọn trong cuộc sống

Đọc thêm: 40 bài học tâm linh – ‘Chuyển hóa’ cuộc sống mỗi ngày

Danh ngôn về sự lựa chọn trong cuộc sống

Xem ngay tuyển tập châm ngôn về sự lựa chọn trong cuộc sống tại đây!

Dẫn chứng & bài học về sự lựa chọn

Điều gì thực sự có ý nghĩa trong cuộc đời này? https://spiderum.com/bai-dang/Dieu-thuc-su-co-y-nghia-trong-cuoc-doi-nay-aNAP7qFWmEdl.

Đặt câu hỏi mỗi ngày: Khám phá & thay đổi bản thân từ những điều nhỏ nhặt nhất. https://spiderum.com/bai-dang/Dat-cau-hoi-moi-ngay-Kham-pha-and-thay-doi-ban-than-tu-nhung-dieu-nho-nhat-nhat-260ibmRuqRrz.

Sức mạnh của sự lựa chọn: Bạn muốn trở thành người như thế nào? https://spiderum.com/bai-dang/Suc-manh-cua-su-lua-chon-Ban-muon-tro-thanh-nguoi-nhu-the-nao-RVUhhWL3cf3s.

Một quan điểm triết học về sự lựa chọn: Mô hình bánh xe Roulette Khai phóng tính (Openness). https://spiderum.com/bai-dang/Mot-quan-diem-triet-hoc-ve-su-lua-chon-Mo-hinh-banh-xe-Roulette-Khai-phong-tinh-Openness-uFua0klPzrUU.

Lời kết

Và đó là toàn bộ những gì tôi muốn chia sẻ. Cảm ơn bạn đã đồng hành cùng tôi đến tận bây giờ!

Như bạn có thể thấy, không có công thức đơn giản, không có thuật toán hoàn hảo, không có lối tắt nào để đảm bảo luôn đưa ra những lựa chọn “đúng đắn” trong cuộc sống. Để có thể đi đến quyết định sáng suốt, mỗi người phải không ngừng dành thời gian tự khám phá và phản biện, cũng như đủ can đảm để đón nhận tự do và trách nhiệm của mình.

Chính qua hành động lựa chọn có ý thức và chủ đích, ngay cả khi luôn còn đó sự mơ hồ và nguy cơ phạm sai lầm, chúng ta mới thực sự khẳng định tiềm năng của mình.

Mỗi lựa chọn, dù lớn hay nhỏ, cuối cùng đều góp phần định hình nên bản sắc của chúng ta.

Lựa chọn chân thực là khi bạn có thể đưa ra quyết định với ý thức đầy đủ rằng, nguy cơ hối tiếc là không thể tránh khỏi hoàn toàn. Rằng bạn không cần phải luôn hoàn hảo hay “đúng” mọi lúc mọi nơi.

Chỉ cần mọi lựa chọn của bạn đều phát xuất từ cái tâm trong sáng, ít quan tâm đến bản ngã, cũng như nỗ lực thực hiện hết mình, thì sau cùng, cuộc sống luôn có cách của nó!

Hãy luôn vững tin, lắng nghe tiếng nói của trực giác, và đừng bao giờ ngừng tiến về phía trước bạn nhé!

May it be an evening star
Shines down upon you
May it be when darkness falls
Your heart will be true

You walk a lonely road
Oh, how far you are from home

Believe and you will find your way
A promise lives within you now

May it be the shadow’s call will fly away
May it be your journey on to light the day
When the night is overcome
You may rise to find the sun

Believe and you will find your way
A promise lives within you now
A promise lives within you now

(Nguyện sao Khuê buổi chiều vời vợi,
Rọi xuống [trên] người, ánh sáng dịu êm.
Nguyện khi bóng tối đêm [vừa] buông lơi,
Lòng người vẫn [mãi] giữ trọn niềm tin.

Đường đời [người] bước, lẻ loi [một mình],
Ôi, quê nhà xa xôi [biết bao] ngóng trông!

Hãy tin, rồi người sẽ tìm thấy lối,
Lời hứa [kia] [vẫn] sống mãi [ở] trong tim.

Nguyện tiếng gọi [của] bóng đêm [kia] tan biến,
Nguyện hành trình [người] thắp sáng [bình] minh.
Khi đêm đen [kia] đã [chớm] qua rồi,
Người [sẽ] đứng lên, đón mặt trời [tươi] mới.

Hãy tin, rồi người sẽ tìm thấy lối,
Lời hứa [kia] [vẫn] sống mãi [ở] trong tim.
Lời hứa [kia] [vẫn] sống mãi [ở] trong tim.)

Ca khúc May it be – Enya

Có thể bạn quan tâm:

Hãy cùng đồng hành
với tôi bạn nhé!

Đăng ký nhận tin
DMCA.com Protection Status